Trang chủ

Samstag, Mai 05, 2012

Bài Giáo Lý của ĐTC Bênêđictô XVI: Sự Hiện Diện trong Cầu Nguyện của Đức MẹPhaolô Phạm Xuân Khôi3/15/2012

Việc tôn kính Mẹ của Chúa Giêsu trong Hội Thánh có nghĩa là học từ Mẹ để trở thành một cộng đồng cầu nguyện.”
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý thứ 29 về cầu nguyện của ĐTC Bênêđictô XVI ban hành trong buổi triều yết chung ngày Thứ Tư 14 tháng 3 năm 2012 tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Lần này ĐTC bắt đầu loạt bài giáo lý về cầu nguyện trong Sách Tông Đồ Công Vụ và các Thư của Thánh Phaolô, đặt trọng tâm bài suy niệm này vào sự hiện diện trong cầu nguyện của Đức Mẹ giữa các Tông Đồ.


* * * * *


Anh chị em thân mến,

Với bài Giáo Lý hôm nay, tôi muốn bắt đầu nói về việc cầu nguyện trong Sách Tông Đồ Công Vụ và các Thư của Thánh Phaolô. Như chúng ta biết, Thánh Luca đã cho chúng ta một trong bốn sách Tin Mừng, dành riêng cho cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu; nhưng ngài cũng để lại cho chúng ta một sách được gọi là sách đầu tiên về lịch sử Hội Thánh, Sách Tông Đồ Công Vụ. Trong hai sách này, một trong những yếu tố được lập lại nhiều lần là cầu nguyện, từ cầu nguyện của Chúa Giêsu đến cầu nguyện của Đức Mẹ Maria, của các môn đệ, các phụ nữ và cộng đồng Kitô hữu. Con đường ban đầu của Hội Thánh được đánh dấu cách nhịp nhàng bằng tác động của Chúa Thánh Thần, là Đấng biến đổi các Tông Đồ thành những chứng nhân của Đức Kitô Phục Sinh cho đến đổ máu của mình, cùng việc lan tràn nhanh chóng của Lời Chúa ở Đông Phương và Tây Phương. Tuy nhiên, trước khi việc công bố Tin Mừng được lan tràn, Thánh Luca ghi lại câu chuyện Lên Trời của Chúa Phục Sinh (x. Cv 1,6-9). Chúa đã ban cho các môn đệ chương trình của Người về cuộc đời của các ngài, là hiến thân để rao giảng Tin Mừng. Người nói: “Các con sẽ nhận được quyền năng khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các con. Và các con sẽ là nhân chứng của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp xứ Giuđêa, cùng Samaria và đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Ở Giêrusalem, vì sự phản bội của Giuđa Iscariot, các Tông Đồ chỉ còn mười một vị, đã họp nhau trong nhà để cầu nguyện, và chính trong cầu nguyện mà các ngài đón chờ hồng ân mà Đức Kitô Phục Sinh đã hứa là Chúa Thánh Thần.

Trong bối cảnh chờ đợi này, giữa thời gian Chúa Lên Trời và Lễ Ngũ Tuần, lần cuối cùng Thánh Luca đề cập đến Đức Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và các anh em của Người (câu 14). Ngài đã dành phần đầu Tin Mừng của ngài cho Đức Mẹ Maria, từ việc thiên thần truyền tin cho đến việc ra đời và thời thơ ấu của Con Thiên Chúa làm người. Chính với Đức Mẹ Maria mà cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu bắt đầu, thì cũng với Đức Mẹ Maria mà những bước đầu tiên của Hội Thánh đã bắt đầu. Trong cả hai trường hợp, bầu khí là là bầu khí lắng nghe Thiên Chúa và suy niệm. Cho nên hôm nay tôi muốn ngừng lại ở sự hiện diện trong cầu nguyện này của Đức Trinh Nữ Maria giữa các môn đệ, là những người sẽ trở thành Hội Thánh sơ khai đầu tiên.

Đức Mẹ Maria đã âm thầm đi theo suốt cuộc hành trình của Con Mẹ trong sứ vụ công khai, ngay cả cho đến chân Thánh Giá. Và giờ đây Mẹ tiếp tục âm thầm cầu nguyện mà đi theo con đường của Hội Thánh. Trong lúc Truyền Tin trong ngôi nhà ở Nazareth, Đức Mẹ Maria đã đón chào sứ thần của Thiên Chúa; Mẹ chú tâm đến những lời của ngài; Mẹ đón nhận những lời ấy và đáp lại chương trình của Thiên Chúa, như thế bày tỏ lòng hoàn toàn sẵn sàng của Mẹ: “Này tôi là tôi tớ Chúa, xin làm cho tôi theo ý Ngài” (x. Lc 1:38). Nhờ thái độ lắng nghe nội tâm mà Đức Mẹ có thể giải thích lịch sử của mình và khiêm tốn thừa nhận rằng chính Chúa là Đấng hành động.

Trong chuyến thăm viếng người chị họ của Mẹ là bà Elizabeth, Mẹ thốt lên một kinh nguyện ngợi khen và hân hoan, mừng ân sủng của Thiên Chúa là điều tràn đầy tâm hồn và cuộc đời Mẹ, làm cho Mẹ trở thành Mẹ Chúa (x. Lc 1:46-55). Ngợi khen, tạ ơn, vui mừng: trong bài thánh thi Magnificat (Kinh Ngợi Khen), Đức Mẹ Maria không những chỉ nhìn vào những gì Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ, mà còn cả những gì Ngài đã làm và luôn làm trong lịch sử. Thánh Ambrôsiô, trong một bài chú giải nổi tiếng về kinh Magnificat, mời gọi chúng ta có cùng một tinh thần cầu nguyện khi ngài nói: “Chớ gì tâm hồn của Đức Mẹ Maria ở trong mỗi người trong anh em để ca ngợi Chúa; và chớ gì tinh thần của Đức Mẹ Maria ở trong mỗi người trong anh em để vui mừng trong Thiên Chúa” (Expositio Evangelii secundum Lucam 2 , 26: PL 15, 1561).

Ngay cả trong Phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem, trong “căn phòng trên lầu”, nơi các môn đệ của Chúa Giêsu “thường cư ngụ” (x. Cv 1:13), Mẹ hiện diện trong bầu không khí lắng nghe và cầu nguyện, trước khi những cánh cửa mở tung ra và các ngài bắt đầu rao giảng Đức Kitô cho muôn dân, dạy họ tuân giữ tất cả những gì mà Người đã truyền (x. Mt 28:19-20). Các giai đoạn của cuộc hành trình của Đức Mẹ Maria, từ ngôi nhà ở Nazareth đến Giêrusalem, qua Thập Giá, nơi Con Mẹ trao Mẹ cho Thánh Gioan Tông Đồ, được đánh dấu bằng khả năng duy trì một bầu không khí hồi tưởng liên tục, để Mẹ có thể suy đi nghĩ lại mỗi biến cố trong thinh lặng của tâm hồn mình trước mặt Thiên Chúa (x. Lc 2:19-51) và suy niệm trước Thiên Chúa, cũng như hiểu được Thánh Ý Thiên Chúa và như thế có thể chấp nhận Thánh Ý này trong lòng. Vì vậy, sự hiện diện của Mẹ Thiên Chúa với Nhóm Mười Một, sau khi Chúa Lên Trời, không phải chỉ là một ghi chú lịch sử về một điều trong quá khứ, nhưng có một ý nghĩa có giá trị lớn lao, bởi vì Mẹ chia sẻ với các ngài những gì là gia sản quý giá nhất: ký ức sống động về Chúa Giêsu, trong cầu nguyện; và Mẹ chia sẻ sứ mệnh này của Chúa Giêsu: gìn giữ những kỷ niệm về Chúa Giêsu và như thế giữ gìn sự hiện diện của Người.

Việc đề cập cuối cùng về Đức Mẹ Maria trong hai tác phẩm của Thánh Luca xảy ra vào ngày Sabáth: ngày nghỉ ngơi sau việc tạo dựng của Thiên Chúa, ngày im lặng sau cái chết của Chúa Giêsu và mong đợi sự Phục Sinh của Người. Truyền thống kính Đức Mẹ vào ngày thứ Bảy được bắt nguồn từ biến cố này. Giữa ngày Lên Trời của Đấng Phục Sinh và ngày Lễ Hiện Xuống đầu tiên của Kitô giáo, các Tông Đồ và Hội Thánh quây quần quanh Đức Mẹ Maria để cùng Mẹ chờ đợi hồng ân Chúa Thánh Thần, mà nếu không có hồng ân ấy thì người ta không thể trở thành nhân chứng. Mẹ đã nhận được Ngài để Mẹ có thể hạ sinh Ngôi Lời Nhập Thể, thông phần với toàn thể Hội Thánh trong việc mong đợi cùng một hồng ân ấy, ngõ hầu “Đức Kitô được hình thành” (x. Gal 4,19) trong tâm hồn mỗi tín hữu. Nếu không có Hội Thánh mà không có lễ Hiện Xuống, thì cũng không có lễ Hiện Xuống mà không có Mẹ Chúa Giêsu, vì Mẹ đã sống một cách hoàn toàn độc đáo điều mà Hội Thánh trải qua mỗi ngày dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Thánh Chrômatiô thành Aquilêia chú giải về Sách Tông Đồ Công Vụ rằng: “Hội Thánh kết hợp trong phòng trên lầu với Đức Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và với anh em của Người. Cho nên, một người không thể nói về Hội Thánh, trừ khi có sự hiện diện của Đức Mẹ Maria, Mẹ của Chúa ... Nơi nào mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô từ lòng Đức Trinh Nữ được rao giảng thì nơi đó có Hội Thánh của Đức Kitô, và nơi nào các Tông Đồ, là anh em của Chúa, giảng dạy, thì nơi đó người ta được nghe Tin Mừng” (Sermo 30, 1: SC 164, 135).

Công đồng Vatican II đã muốn nhấn mạnh cách đặc biệt đến mối dây liên hệ được biểu lộ rõ ràng trong việc Đức Mẹ Maria và các Tông Đồ cùng nhau cầu nguyện, ở cùng một nơi, trong lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần. Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium xác định rằng: “Vì Thiên Chúa không muốn tỏ bày mầu nhiệm cứu rỗi nhân loại cách long trọng trước khi Ngài đổ tràn Thánh Thần mà Đức Kitô đã hứa, cho nên chúng ta thấy các Tông Ðồ trước ngày Hiện Xuống ‘đã kiên tâm hiệp ý cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, với Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và với anh em Người’ (Cv 1:14). Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Chúa Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ Mẹ trong ngày Truyền Tin.” (số 59). Chỗ đặc biệt của Đức Mẹ là Hội Thánh, ở đó “Mẹ được công nhận là phần tử ưu việt và tuyệt đối độc đáo..., và là kiểu mẫu và gương mẫu tuyệt vời về đức tin và đức ái của Hội Thánh” (nt., số 53).

Như thế, việc tôn kính Mẹ của Chúa Giêsu trong Hội Thánh có nghĩa là học từ Mẹ để trở thành một cộng đồng cầu nguyện: đó là một trong những đặc điểm thiết yếu trong mô tả đầu tiên về cộng đồng Kitô hữu được nêu lên trong Sách Tông Đồ Công Vụ (x. 2: 42). Thường thì cầu nguyện được định đoạt bởi những tình trạng khó khăn, những vấn đề cá nhân làm cho chúng ta chạy đến Chúa để tìm ánh sáng, sự an ủi và giúp đỡ. Đức Mẹ Maria mời gọi chúng ta mở rộng những chiều kích của cầu nguyện, hướng về Thiên Chúa không phải chỉ trong những lúc cần thiết, và không phải chỉ cho bản thân mình, nhưng còn một cách trọn vẹn, kiên trì và trung thành, với “một lòng và một linh hồn” (x. Cv 4,32).

Các bạn thân mến, cuộc đời con người trải qua những giai đoạn chuyển tiếp khác nhau, thường rất khó khân và đòi hỏi, là những điều đòi buộc phải có sự lựa chọn bắt buộc, từ bỏ và hy sinh. Mẹ Chúa Giêsu đã được Chúa đặt trong những giây phút quyết định của lịch sử cứu độ, và Mẹ đã luôn biết phải đáp ứng thế nào với một tâm hồn hoàn toàn sẵn sàng, kết quả của một mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa trong cầu nguyện chuyên cần và sốt sắng. Giữa Thứ Sáu tuần Thương Khó và Chúa Nhật Phục Sinh, người môn đệ Chúa yêu, và cùng với ngài toàn thể cộng đồng các môn đệ được trao phó cho Mẹ (x. Ga 19:26). Giữa ngày Chúa Lên Trời và ngày Lễ Hiện Xuống, người ta tìm thấy Mẹ cầu nguyện với và trong Hội Thánh (x. Cv 1:14). Như Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Hội Thánh, Đức Mẹ Maria thực thi tình mẫu tử của Mẹ cho đến khi kết thúc lịch sử. Chúng ta hãy phó thác cho Mẹ mọi giai đoạn của đời sống cá nhân và Hội Thánh, kể cả giờ phút cuối cùng của chúng ta. Đức Mẹ Maria dạy chúng ta sự cần thiết của cầu nguyện, và cho chúng ta thấy rằng chỉ nhờ mối liên hệ không ngừng, mật thiết, đầy yêu thương với Con Mẹ mà chúng ta có can đảm rời “ngôi nhà của mình”, là chính mình, để đi đến tận cùng trái đất mà rao giảng Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ thế gian. Cám ơn anh chị em.