Trang chủ

Donnerstag, Mai 31, 2012

ĐÓN NHẬN MARIA LÀ MỞ CỬA ĐÓN CHÚA THÁNH THẦN

Tác giả:  Gs. Nguyễn Đăng Trúc (chuyển ngữ)

Nguồn:  http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=10060
  
+ Hồng-y L. J. Suenens
Người dịch   Nguyễn đăng Trúc

“Giáo-hội phải tìm lại tuổi xanh, bằng cách tìm lại Người Mẹ của mình” (Hồng y Decourtray)
  
1- Mầu-nhiệm Nhập-thể làm cho chúng ta thành thần thánh 
Chúng ta chưa nắm bắt được chiều kích của tiếng “Xin vâng” của Mẹ Maria trong mầu nhiệm Nhập thể vì chúng ta nhìn sự kiện nầy dưới nhãn quan quá trần tục. Chúng ta quên hoặc không nhấn mạnh đến khía cạnh siêu nhiên: Con Thiên Chúa đã làm người để con người trở thành con Thiên Chúa trong Ngài. Có hai chiều luân chuyển: một chiều đi xuống và một chiều đi lên. 
Chúng ta đã cố thấm nhập khía cạnh “Ngài đến giữa chúng ta” trong khung cảnh huy hoàng của đêm Giáng-sinh; chúng ta thờ lạy Chúa Hài đồng với các mục đồng và các nhà chiêm tinh, nhìn ngắm khuôn mặt rạng rỡ của Maria và Giuse.
 Nhưng có một chiều kích khác: trời cao đã đến với chúng ta để đưa chúng ta về trời. Mầu nhiệm Nhập thể là khởi nguyên làm cho chúng ta thành thần thánh. Trong Đức Giêsu, Con một của Thiên Chúa, chúng ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa.
Không phải chỉ có sự kiện trời hé mở để Con Thiên Chúa đi vào trần thế, nhưng cuộc giáng trần kỳ diệu ấy cũng đang mở cửa để chúng ta đi vào gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi, mặc dù bước đường đi lên của chúng ta còn ẩn kín, nhưng nó hiện thực.
Nhìn từ trên cao xuống, chúng ta chiêm ngắm Chúa Cha, Đấng ban Thánh Thần cho chúng ta trong Chúa Con và nhờ Chúa Con. Đó là then chốt của mầu nhiệm mà thiên thần truyền báo cho Maria: “Thánh Thần bao phủ bà bằng bóng dọi của Ngài” (Lc. 1, 35). Nhưng đó cũng là chìa khóa đưa chúng ta vào mầu nhiệm thần-hóa chúng ta. Công cuộc thần-hóa nầy cũng do Thánh Thần ấy, là Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con gửi đến cho chúng ta vào ngày Hiện Xuống. Anh em sẽ được rửa trong Thánh Thần. Đó là lời “đối xứng” với lời của thiên thần trong lần truyền tin đầu tiên cho Maria.
Cuộc gặp gỡ đất-trời nhờ Thánh Thần và lời “xin vâng” của Maria trong buổi truyền tin, bao trùm mầu nhiệm Nhập thể. Tiếng xin vâng nói với con Thiên Chúa, Đấng Cứu độ nhân trần, đến để thần-hóa con người bằng cách thông ban Thánh Thần của Chúa Cha và Chúa Con; công cuộc thần-hóa ấy đúng là hoa trái của ơn cứu độ. Tiếng xin vâng nầy là trần thế xin vâng theo “chương trình của Thiên Chúa” được thực hiện trên Maria; Maria nói “xin vâng” nhân danh toàn nhân loại. 
Theo cái nhìn của Thiên Chúa, mầu nhiệm Nhập thể của Đức Giêsu không tách rời khỏi việc khai sinh ra Giáo-hội, vì Giáo hội là thân thể Chúa Giêsu Kitô, được Thánh Thần thông truyền và quảng bá cho nhân loại. Vào ngày Hiện Xuống, mầu nhiệm Nhập thể mở ra cho trần thế nhìn thấy; đây là thời mới của Thiên Chúa, là kỷ nguyên mới bắt đầu thời của Thánh Thần.
Tiếng xin vâng đầu tiên của Maria đã hàm ngụ tiếng xin vâng trong ngày Hiện Xuống; Maria lần nầy nói tiếng xin vâng để khai sinh công cuộc rao truyền Tin Mừng, vì từ nay Chúa Kitô hành động nhờ Thánh Thần. Maria Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ trở thành Mẹ của Giáo-hội. Mẹ thân xác tiếp nối làm Mẹ tinh thần, nghĩa là Mẹ trong Thánh Thần.  Không bao giờ được phân rẽ điều mà Chúa đã kết buộc: “Maria và Thánh Thần”.
Chúng ta có thói quen chỉ đặt Đức Maria trong khung cảnh của mầu nhiệm Nhập thể “từ trên xuống”. Chúng ta cũng cần phải định vị vai trò của Mẹ ở tiến trình “đi lên” trong kỷ nguyên mới bắt đầu từ ngày Hiện Xuống của Thánh Thần.
Thánh Phaolô gọi Đức Kitô là Thần ban sự sống để nhấn mạnh rằng chúng ta đã đi vào kỷ nguyên của Thánh Thần. Và Maria là người đầu tiên đi vào thời đại ấy, thời đại của Giáo-hội.  Chúng ta gọi Giáo-hội là “Hội-thánh Mẹ chúng ta”. Và chúng ta gọi Maria là Mẹ của Giáo-hội.
 Chúng ta chưa ý thức rõ rằng, không phải là hai chức làm mẹ ở gần nhau, nhưng kỳ thực chỉ là một thân phận làm mẹ chúng ta nơi Maria, nối dài đến Giáo-hội hữu hình đang sinh ra những người con qua nước của bí tích Rửa tội. Chúng ta phải đón nhận Maria vì Đấng sinh ra cho chúng ta trong Mẹ là do Chúa Thánh Thần. Chúng ta đón nhận Mẹ Maria, là chúng ta mở lòng tiếp nhận Thánh Thần.
Chúng ta còn chập chững lần mò tiến đến kho tàng “bí nhiệm của Ngày Hiện Xuống”.  Maria có mặt ở Phòng-hội lúc ấy, ở giữa một trăm hai mươi môn đệ. Đây không phải là sự trùng hợp bất chừng, nhưng là để Mẹ khai nguyên một đàn con mới vào lúc mà Người Con duy nhất của Mẹ khai nguyên “một mùa rao giảng Tin-mừng mới” trong Thánh Thần và do Thánh Thần.                 
Kỳ thực, sự kiện đó đã qua. Sứ mệnh của Chúa Giêsu nay là sứ mệnh của Đức Kitô phục sinh và hằng sống, thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần.
Chính Thánh Thần sẽ dần dần mặc khải cho chúng ta những gì chúng ta chưa từng hiểu thấu; chính Ngài sẽ thực hiện nơi chúng ta những việc trọng đại, còn hơn cả những gì Chúa Giêsu đã làm lúc còn tại thế. Chính Thánh Thần - là thần trí của Ngài - ban sự sống cho Giáo-hội và dấy lên các vị thánh.
Tôi tin Thánh Thần “ban sự sống”. Và Maria kết hợp với Thánh Thần luôn mãi. Mẹ tiếp nhận mọi sự từ Chúa Thánh Thần. Maria làm mẹ nhằm giúp chúng ta biết rằng cần phải để Chúa Thánh Thần làm mọi sự trong chúng ta. Mẹ được đưa về trời là việc làm của Thánh Thần, Đấng chu toàn công trình tạo dựng của Thiên Chúa, “đây là sứ mạng hoàn thành”.
Giao ước “Thánh Thần - Maria” nầy giúp chúng ta hiểu chương trình tạo dựng theo hình ảnh và giống Chúa; và để trung thực với hình ảnh của mình, Ngài đã dựng nên con người là đàn ông và phụ nữ. Đã có một truyền thống nhìn Chúa Giêsu là Ađam mới và Maria là Evà mới. Truyền thống ấy cho thấy có sự bổ sung phong phú.
Đây không phải là hai thành phần bình đẳng: Giêsu - Maria. Nhưng có một sự bổ sung về vai trò và chức năng, có một khía cạnh “nữ” nơi Maria, đóng vai trò đặc biệt của mình, mà Phúcâm đã ghi, chẳng hạn ở tiệc cưới Cana. Có môt khía cạnh “nữ” trong Giáo-hội.
Linh mục Da Haes đã từng nói: “Maria, đó là Giáo-hội toàn hảo”. Nhưng đừng nên nhân đôi vai trò của Chúa Giêsu, rồi vai trò Đức Maria. Không phải như thế, vai trò của Maria không nằm trong khung cứu độ. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng trung gian, là Đấng Cứu-độ. Nhưng Maria tiếp nhận ơn cứu độ duy nhất ấy và giúp mọi người mở rộng lòng đón nhận ơn ấy.
Kết hợp Giáo-hội khải hoàn và các thánh với Maria, công trình đặc biệt của Chúa, là ca tụng vinh quang Chúa. Maria là Nữ-vương Thiên đàng và các thiên thần. Mọi hành động của Mẹ là Thánh Thần ở trong Mẹ và nhờ Mẹ. Đó là Thánh Thần của Chúa Con. Đó là Thánh Thần của Chúa Cha. Toàn thể con người Maria là trong Chúa Thánh Thần và trong Chúa Kitô.
Chỉ có Chúa Thánh Thần mới cho chúng ta biết về Maria. Chính Chúa Thánh Thần dạy Maria gọi tên “Giêsu”. Chính Chúa Thánh Thần chuẩn bị Maria để chu toàn sứ mệnh của mình, khi Ngài tạo dựng nên Mẹ toàn thánh, hoàn toàn vô nhiễm ( làm nhà tạm của Chúa). Maria là sự vinh quang của Thánh Thần, toàn thắng tội lỗi và sự chết, vì Thánh Thần đã phục sinh Chúa Giêsu từ cõi chết.

1-  Một giao ước có hai chiều kích 
Hồng y Mercier đã viết rằng: “Kitô giáo là một giao ước của hai mối tình trong Chúa Giêsu Kitô”. Tình yêu Thiên Chúa đến từ trời cao để thực hiện giao ước thần thánh, tình yêu ấy gọi là Thánh Thần. Tình yêu con người từ đất vươn lên gặp gỡ Chúa, được gọi là Maria.
Hẳn nhiên, tình yêu nơi Maria vươn lên gặp gỡ Thánh Thần, thì đã có sự can thiệp của chính tình yêu đi trước của Chúa rồi. Maria đã đón nhận Thánh Thần vào cuộc sống mình, còn Chúa Thánh Thần linh hoạt việc làm của Mẹ.
Đất đã cho hoa trái và trời đổ mưa Đấng Cứu-độ nơi Maria: lời hứa làm nên toàn giao ước cũ nay thực hiện nơi Maria. Mầu nhiệm Nhập thể và tất cả những sự việc phát sinh từ sự kiện nầy lại nằm nơi mối giao thoa gặp gỡ giữa Thiên Chúa và nhân loại, nơi Israel, dân Chúa. 
Chúng ta dừng lại nơi điểm được xem là tâm điểm của mầu nhiệm nầy: sự gặp gỡ giữa Thánh Thần và Maria. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ trên bà...” (Lc. 1,35).
Đây có phải là một sự kiện lịch sử xa xưa, đã qua đi rồi không? Hay những lời nầy hé mở cho mọi thời đại trong tương lai một qui luật bất biến về hành động của Thiên Chúa trên trần gian? 
Vấn đề nêu lên rất quan trọng. Thu hẹp giao ước của Thánh Thần và Maria vào sự kiện sinh Chúa Giêsu, là giản lược giao ước nầy ở cấp độ một thời điểm lịch sử; dù có lớn lao cũng chỉ là một giây lát, rồi mọi sự đi vào dĩ vãng. Đó là định vị Đức Maria trong lịch sử, chứ không phải trong hiện tại hay trong tương lai.
Phải chăng đó là điều Chúa muốn? Hay là cần phải hiểu rằng Thánh Thần luôn luôn đến bao phủ Mẹ bằng sức mạnh của Ngài? 
Cùng với toàn thể Giáo-hội Công-giáo, chúng ta tin rằng sự kết hợp giữa Thánh Thần và Maria được thực hiện cho muôn thế hệ, giao ước nầy từ đấy không bao giờ hủy bỏ, và đến nay Chúa Giêsu vẫn tiếp tục sinh ra một cách kín đáo trong tâm hồn mọi người, nhờ Thánh Thần và nhờ Mẹ Maria.
Chúng ta tin vào mầu nhiệm nầy, mầu nhiệm nằm sâu trong công trình cứu chuộc của Chúa, vì, như chúng ta sẽ thấy sau nầy, Maria và Giáo-hội làm nên một. Đến độ sinh ra từ “Thánh Thần và Mẹ Maria” có nghĩa là sinh ra từ “Thánh Thần và từ Giáo-hội “; và Phép rửa đem lại cho chúng ta sự sống là kết quả của người mẹ, vừa là hai và vừa duy nhất nầy, dù bằng phương thức khác nhau.
Mọi việc sùng kính Đức Mẹ Maria mà không biết đến hay xem nhẹ mầu nhiệm nầy, thì chỉ là một lối sùng kính nặng tình cảm, mơ hồ và thiếu sinh lực. Vì khi tách khỏi căn rễ sâu kín thật sự nầy, thì lòng sùng kính của ta chỉ như một đóa hoa trồng trong chậu chứ không phải là một cây cổ thụ đâm rễ sâu xuống lòng đất. Nó sẽ bị vùi dập bởi bất cứ ngọn gió nào lướt đến, thay vì là “cây xanh kia tươi tốt trồng gần giòng suối, nảy sinh hoa trái đúng mùa và cành lá không tàn úa” (Tv. 1, 3).
Thiên chức làm mẹ của Maria có rễ sâu trong chính mầu nhiệm Nhập thể. Phải luôn trở lại điểm then chốt nầy. Vì mầu nhiệm Nhập thể đã hàm ngụ ngay cả sự cứu độ rồi. Đấng sinh ra chỉ đến trần gian là để hiến thân làm của lễ tế. Ngài không chết như mọi con người khác vì Ngài đã sinh ra làm người: nhưng Ngài sinh ra là để chết.  Ngài sinh ra trong cương vị thầy cả và là lễ tế của ơn Cứu độ.
Những bà mẹ nhân trần sinh con, và các con một ngày kia có thể trở thành tư tế. Đối với các linh mục, phẩm giá tư tế là một ơn nhưng không, không tùy thuộc từ bản tính tự nhiên của họ. Trái lại, Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng sinh ra là tư tế do tự sự kiện Nhập thể nầy, Ngài là con chiên của Thiên Chúa. Vì vậy thiên chức làm Mẹ của Maria hoàn thành nơi mầu nhiệm Cứu-độ. 
Mầu nhiệm Cứu-độ là một mầu nhiệm có hai khía cạnh: nó vừa có nghĩa là Thiên Chúa, Đấng Tối-cao, Siêu-việt, luôn là Thiên Chúa nơi Ngài, đã xuống thế để ở giữa chúng ta. Nhưng nó cũng là một cử chỉ đưa con người lên tham dự chính bản tính của Thiên Chúa.
Chúa làm người, nhưng cứu cánh của mầu nhiệm Nhập thể là thần hóa con người, làm cho con người tham dự vào bản tính của Chúa, trở thành nghĩa tử, được chọn và yêu mến trong Người Con duy nhất của Ngài: đây là một “cuộc trao đổi kỳ diệu”, theo lối nói của phụng vụ: Con Thiên Chúa đã thành người trong Đức Maria để chúng ta thành hình ảnh của Thiên Chúa, nghĩa là được thần hóa.
Thiên Chúa làm người nhưng vẫn là Thiên Chúa, và đồng thời Ngài thần hóa chúng ta, biến đổi thân phận chúng ta, nhưng chúng ta vẫn luôn là người. Chính nhờ tiếng “xin vâng” của Đức Maria mà chúng ta đi vào “cuộc trao đổi kỳ diệu"õ nầy, để được thần hóa như Đức Kitô đã được nhân hoá. Đó là chiều sâu và rộng của Giao ước làm điểm khởi nguyên cho đời sống Kitô hữu, và làm trọng điểm cho mọi công cuộc truyền bá Phúc-âm chân thật.

3- Bước đầu dẫn đến Giao-ước: Đức Maria vô nhiễm sinh ra đời 
Lễ sinh nhật Đức Maria ( ngày 18 tháng 9 ) cống hiến cho chúng ta cơ hội để mừng hai giao ước:
- Giao ước đầu liên quan đến trời cao: dẫn đưa chúng ta vào chương trình cứu độ trần thế của Chúa.
- Giao ước thứ hai liên quan đến cuộc sống nhân trần: là gió mát lúc hừng đông, trong buổi sáng đầu tiên.
  
Nhìn từ trời cao 
Đây là một lễ của Ba Ngôi Thiên Chúa; giây phút đầu chuẩn bị Giao-ước sẽ nối Đất - Trời.
- Maria là người con gái mến yêu của Chúa
Cha, Đấng chuẩn bị cho Mẹ hoàn thành thân phận cao cả.
- Ngài sẽ là Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng sẽ chọn Mẹ làm nơi cư ngụ.
- Ngài là người sẽ nói “xin vâng” quyết định đón Chúa Thánh Thần đến vào lúc Truyền tin.

Nhìn từ phía nhân trần 
Chúng ta có thể làm cách nào để mừng lễ sinh nhật Đức Maria, ngày 8 tháng 9 theo niên lịch phụng vụ của chúng ta, một cách sốt sắng và ý thức hơn chăng?, vì chúng ta đã mừng lễ ấy mỗi năm, nhưng chưa đúng mức trong khuôn khổ nếp sống của người Kitô hữu.
Trước hết, mong sao Kitô hữu cố găng tham dự Thánh-thể mà Giáo-hội cử hành trong ngày kỷ niệm sinh nhật Mẹ Thiên-đàng của mình, và lôi kéo thêm người khác cùng tham dự.
 Chúng ta giờ đây nên đi vào nội dung của lời kinh mà phụng vụ giúp chúng ta suy niệm trong ngày ấy:
“Lạy Chúa, bởi mầu nhiệm hiệp thông nầy, Chúa mang lại sức lực cho Giáo-hội Chúa; xin Chúa làm cho Giáo-hội vui mừng, hân hoan vì Đức Trinh-nữ Maria được sinh ra, đem đến niềm hy vọng và bình minh ơn Cùu độ cho trần thế”.
Trên bình diện cuộc sống gia đình, nên chuẩn bị và mừng lễ nầy ở ngay trong nhà mình; có thể dặt mẫu hình sinh nhật Đức Maria[1] trên bàn thờ trong nhà (ở xã hội Tây phương người ta hay dọn một nơi cầu nguyện ở góc nhà). 
 Ngày lễ nầy trong phụng vụ cũng có một âm hưởng đặc biệt trong những nơi đã biết đến chuỗi nhỏ FIAT; chuỗi nhỏ nầy phổ biến rộng rãi trên thế giới, khai sinh vào ngày 08.9.1984. Mầu nhiệm vui đầu tiên của chuỗi nầy là “Sinh nhật của Mẹ Maria”.
Khi mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta chuyển những tình cảm hiếu thảo của mình trong ngày lễ Các bà mẹ (thường rất phổ biến ngày nay) lên đến mức siêu nhiên.
Nhân loại có thể biết hay không biết, nhưng với con mắt đức tin, Maria là Mẹ của toàn nhân loại; Maria là Mẹ của tất cả các bà mẹ. Mẹ là Mẹ của Giáo-hội luôn mãi.
Do đó, lễ sinh nhật Đức Mẹ là một lễ hy vọng hướng đến việc canh tân Giáo-hội. Như Đức Hồng y Decourtray từng nói: “Giáo-hội phải tìm tuổi xanh của mình, bằng cách tìm cách gặp lại Mẹ mình”. Trong nỗ lực Phúc-âm hóa mới, việc làm đó đặc biệt cần thiết.
Thánh-bộ Nghi-lễ đã nêu lên một loạt những gợi ý thực tiễn và bổ ích giúp cho việc Mừng Năm Thánh Mẫu mang lại nhiều kết quả nơi các Giáohội địa phương. Trong “ Các hướng dẫn và đề nghị mừng năm Thánh Mẫu ” (Orientamenti e proposte per l’anno Mariano), thánh bộ lưu ý đến bốn lễ mừng kính Đức Maria đang được phổ biến trong việc sùng kính của dân chúng. Trong những lễ cần phải tôn vinh lại, thánh bộ liên hệ đã nêu lên lễ Sinh nhật Đức Maria.
Thật vậy, tôi nghĩ là lễ Sinh nhật Đức Maria không được Kitô hữu lưu ý đúng mức. Lễ ấy qua đi không ai hay biết, hoặc cũng vì nó được xếp vào phụng vụ của một tuần lễ thường, hoặc vì bị các lễ trọng khác che mờ.
Sinh nhật Đức Maria đáng được Kitô hữu mến chuộng vì lễ ấy nhắc lại ơn huệ duy nhất là ơn vô-nhiễm nguyên tội, đánh dấu Đấng sẽ làm Mẹ Đấng Cứu-độ được sinh ra.
Dân chúng sùng mộ muốn chiêm ngắm Chúa Giêsu trong máng cỏ Giáng sinh; nhưng không lưu ý đến nôi của Maria, như muốn để niềm vui nầy thành niềm vui riêng tư của Thánh Gioakim và Thánh Anna.
Tại sao chúng ta không hiệp thông vào nỗi vui mừng ấy một cách nồng nhiệt hơn? Hãy mừng vui khi Mẹ chúng ta sinh ra: trong lúc thế giới phổ biến ngày càng rộng rãi “Ngày lễ các bà mẹ”, Kitô hữu chúng ta cũng nên mừng lễ sinh nhật của Mẹ chúng ta, Đấng đã giúp chúng ta được sinh ra trong ơn Cứu-độ, đặc biệt là trong khung cảnh gia đình chúng ta.
Chúng ta đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu-độ duy nhất, nhưng tại sao lại quên mừng mầu nhiệm dọn đường và chuẩn bị cho ơn Cứu-độ đó? Thánh Gioan Damascène hân hoan mời gọi thế nầy: 
“Tất cả anh chị em hãy đến, hãy hân hoan mừng ngày sinh nhật, hãy vui niềm vui của toàn thế giới! Hôm nay, từ bản tính phàm trần, một trời mới đã được tạo thành ở trên trần thế. Hôm nay là khởi đầu ơn Cứu-độ cho nhân trần”. 
Phụng vụ ngày nay cho chúng ta hay Đức Maria “đã mang đến nguồn hy vọng và bình minh ơn Cứu-độ cho trần thế”.
Khó mà thấy được cảnh trí nào của thiên nhiên gây xúc động hơn là giây phút đến trước lúc mặt trời mọc. Rạng đông cống hiến một luồng sáng và hơi ấm toả dần trên cảnh vật. Chào đón ngày sinh nhật Mẹ là đã nhìn nhận rạng đông của ngày Cứu độ là Chúa Giêsu. Chào đón Maria trong buổi Truyền tin là đã nhận Chúa Giêsu, mặt trời mang  sự sống cho chúng ta.
Phụng vụ của lễ chế Byzantine, rất lưu ý đến lễ Sinh nhật Đức Maria, ca hát rằng:
“Ngày nầy là bước đầu niềm vui cho mọi người. Trong ngày  nầy các luồng gió báo tin cứu-độ bắt đầu thổi”.
Chúng ta cũng đón chào ngọn gió đầu Mùa Xuân của ơn phúc trong ngày Sinh nhật Mẹ.
 Đức Giáo-hoàng Gioan-Phaolô II đã viết thư cho tôi trong ngày 8.10.1988, khích lệ nhóm FIAT trong sứ mệnh vận động mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ như sau:
“Tôi xin chân thành cám ơn bức thư đề ngày 19.8 vừa qua, và tỏ bày niềm vui của tôi đối với sáng kiến tốt đẹp của Hồng y và của nhóm FIAT nhằm giúp các gia đình Kitô hữu và tín hữu nhiều nước biết nuôi dưỡng tinh thần và ơn ích của Năm Thánh Mẫu 1987-1988, đặc biệt mừng lễ Sinh nhật Trinh nữ Maria một cách sốt sắng; “Mẹ là Đấng mang đến nguồn hy vọng và bình minh ơn cứu-độ cho nhân trần”.
Xin Mẹ Rất thánh của Chúa Kitô Đấng Cứu chuộc hỗ trợ ngài trong nỗ lực tông đồ của ngài!
Tôi thành tâm chúc lành cho ngài!

[1] Một mẫu tượng giấy có hình sinh nhật Đức Mẹ kèm theo lời chú thích và bài hát do Hội FIAT phổ biến

Mittwoch, Mai 30, 2012

Công bố Văn kiện của Bộ giáo lý đức tin về việc thẩm định các vụ hiện ra.


ĐHY Franjo Seper     5/29/2012


VATICAN = Bộ giáo lý đức tin vừa công bố trên trang nhà của Bộ bản dịch bằng các thứ tiếng chính các qui tắc giúp các GM địa phương phân định và phán quyết về các vụ gọi là hiện ra và mạc khải.

Quy luật này được Đại hội của Bộ soạn bằng tiếng la tinh cách đây 32 năm (1978) và được Đức Phaolô 6 phê chuẩn, nhưng hồi đó chỉ được gửi cho các GM chứ không được công bố cho đại chúng. Văn kiện mang tựa đề đầy đủ là ”Những quy tắc của Thánh Bộ Giáo lý đức tin về thủ tục trong việc phân định về những vụ hiện ra hoặc mạc khải” (Norme della Sacra Congregazione per la Dottrina della fede sul modo di procedere nel giudicare presunte apparizioni e rivelazioni).

Trong hơn 3 thập niên qua, đã có nhiều bản dịch không chính thức về văn kiện này. Nay Bộ giáo lý đức tin thấy rằng đây là lúc thích hợp để công bố các quy tắc này cùng với những bản dịch trong các ngôn ngữ chính, để trợ giúp các vị mục tử của Giáo Hội Công Giáo, trong công tác khó khăn là phân định những cuộc gọi là hiện ra, mạc khải, sứ điệp, hoặc tổng quát hơn, là những hiện tượng ngoại thường được coi là có nguồn gốc siêu nhiên”. Từ những thế kỷ qua đến nay có hơn 1.500 vụ gọi là hiện ra của Đức Mẹ trên thế giới, nhưng chỉ có 9 vụ được giáo quyền công nhận là đáng tin.

Sau đây, chúng tôi xin gửi quí vị lời tựa của ĐHY William Levada, đương kim Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, viết ngày 14-12 năm 2011 trước khi lược tóm các qui tắc do Bộ ban hành.

Lời tựa của ĐHY William Levada

1. Bộ giáo lý đức tin phụ trách về những vấn đề liên hệ tới sự thăng tiến và bảo vệ đạo lý đức tin và luân lý. Bộ cũng có thẩm quyền cứu xét những vấn đề khác liên quan tới kỷ luật đức tin như những vụ ngụy thần bí, những cuộc gọi là hiện ra, các thị kiến và sứ điệp gọi có nguồn gốc siêu nhiên. Riêng về trách vụ rất tế nhị này, cách đây hơn 30 năm, Bộ đã chuẩn bị ”Các quy tắc về cách thức tiến hành trong việc phân định những vụ hiện ra hoặc mạc khải” (Normae de modo procedenti in diudicandis praesumptis apparitionibus ac revelationibus). Văn kiện này được các HY, GM thành viên Đại hội toàn thể của Bộ đề ra và được vị Tôi Tớ Chúa Đức Giáo Hoàng Phaolô phê chuẩn ngày 24-2-1978 và sau đó công bố ngày 25-2-1978. Thời ấy, các Quy tắc này được gửi đến các giám mục để thông tin, nhưng không được công bố chính thức, cũng vì những qui tắc ấy liên hệ trước tiên tới các vị Chủ Chăn của Giáo Hội.

2. Như đã biết, qua dòng thời gian, văn kiện này được công bố trong một số tác phẩm, bằng nhiều thứ tiếng, về các vấn đề này, nhưng không có sự cho phép trước đó của Bộ giáo lý đức tin. Ngày nay, phải nhận rằng nội dung chính yếu của các qui tắc quan trọng này đã được công chúng biết tới. Vì thế Bộ giáo lý đức tin thấy rằng nay là lúc thích hợp để công bố các Quy tắc ấy, đồng thời cung cấp bản dịch trong các ngôn ngữ chính.

3. Tính chất thời sự của vấn đề các kinh nghiệm về những hiện tượng siêu nhiên trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội cũng đã được nêu lên gần đây do mối quan tâm mục tử của các GM trong Thượng HĐGM kỳ thứ 12 về Lời Chúa hồi tháng 10 năm 2008. ĐTC Biển Đức 16 nhìn nhận các mối quan tâm đó và đặt trong một chân trời rộng lớn hơn của kế hoạch cứu độ, trong một đoạn quan trọng của Tông huấn Hậu Thượng HĐGM Verbum Domini (Lời Chúa). Nên nhắc lại nơi đây giáo huấn ấy của ĐGH. Giáo Huấn này cần được đón nhận như một lời mời gọi hãy chú ý một cách thích đáng tới những hiện tượng siêu nhiên ấy. ĐTC viết trong Tông Huấn:

”Giáo Hội biểu lộ ý thức mình ở với Chúa Giêsu Kitô đứng trước những Lời chung kết của Thiên Chúa: Ngài là Nguyên thủy và là cùng đích” (Kh 1,17). Ngài đã mang lại cho thụ tạo và lịch sử ý nghĩa cuối cùng của chúng: vì thế chúng ta được kêu gọi sống trong thời gian và trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa trong khuôn khổ nhịp mai hậu của Lời; ”Vì thế, kế hoạch cứu độ của Kitô giáo, với tư cách là Giao Ước mới và chung kết, sẽ không bao giờ qua đi, và không nên chờ mong có một mạc khải công khai nào khác trước khi Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta tỏ hiện trong vinh quang (Xc 1 Tm 6,14 và Tt 2,13” (Dei Verbum, 4). Thực vậy, như các Nghị Phụ đã nhắc nhở trong Thượng HĐGM, ”đặc điểm của Kitô giáo được biểu lộ trong biến cố Chúa Giêsu Kitô, là tột đỉnh của Mạc Khải, là sự viên mãn những lời hứa của Thiên Chúa và là Đấng trung gian cho cuộc gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Ngài là ”Đấng đã mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta” (Ga 1,18) là Lời duy nhất và chung kết được trao phó cho nhân loại” (Đề nghị 4). Thánh Gioan Thánh Giá đã diễn tả chân lý này một cách tuyệt vời: ”Từ khi Con Chúa được ban cho chúng ta, là Lời duy nhất và chung kết, Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi sự trong một lần duy nhất trong Lời duy nhất ấy và không còn gì nữa để nói.. Thực vậy, điều mà xưa kia Thiên Chúa đã nói một phần với các ngôn sứ, Ngài nói trọn vẹn trong Con của Ngài, ban cho chúng ta tất cả những gì là Con của Ngài. Vì thế, ai còn muốn hỏi Thiên Chúa, xin Ngài những thị kiến hoặc mạc khải, thì chẳng những họ làm một điều ngu xuẩn, nhưng còn xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì họ không chăm chú vào Chúa Kitô mà thôi và còn đi tìm kiếm những điều khác mới mẻ nữa” (Lên núi Cát Minh, II, 22).

Để ý đến những điều ấy, ĐTC Biển Đức 16 nhấn mạnh rằng:

”Thượng HĐGM khuyên hãy ”giúp các tín hữu phân biệt rõ ràng giữa Lời Chúa với những mạc khải tư” (Đề nghị 47), vai trò của những mạc khải này không phải là ”bổ túc” mạc khải chung kết của Chúa Kitô, nhưng là giúp sống mạc khải ấy một cách trọn vẹn trong một thời kỳ lịch sử nào đó” (Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 67). Giá trị của những mạc khải tư rất khác với mạc khải công duy nhất: mạc khải công đòi chúng ta phải tin; thực vậy trong mạc khải ấy, qua lời con người và sự trung gian của cộng đồng Giáo Hội sinh động, chính Thiên Chúa nói với chúng ta. Tiêu chuẩn để phán đoán một mạc khải tư là xem nó có hướng chúng ta về chính Chúa Kitô hay không. Khi mạc khải ấy làm cho chúng ta xa Chúa, thì chắc chắn nó không đến từ Thánh Linh, là Đấng hướng dẫn chúng ta bên trong Tin Mừng chứ không ở ngoài Tin Mừng. Mạc khải tư là một trợ giúp cho niềm tin ấy. Vì thế, cốt yếu sự phê chuẩn của Giáo Hội về một mạc khải tư là cho thấy rằng sứ điệp ấy không chứa đựng điều gì trái ngược với đức tin và phong hóa; được phép công bố sứ điệp ấy, và các tín hữu được phép chấp nhận sứ điệp ấy trong một hình thức khôn ngoan thận trọng. Một mạc khải tư có thể du nhập những dấu nhấn mạnh mới, khơi lên những hình thức sùng mộ mới của lòng đạo đức hoặc đào sâu những hình thức cổ kính. Nó cũng có thể có tính chất ngôn sứ nào đó (Xc 1 Ts 5,19-21) và có thể là một trợ lực giá trị để hiểu và sống Tin Mừng một cách tốt đẹp hơn trong thời đại ngày nay; vì thế, không được lơ là nó. Mạc khải tư là một trợ lực, được trao tặng nhưng ta không bị bó buộc phải sử dụng. Trong mọi trường hợp, mạc khải tư phải là một sự nuôi dưỡng đức tin, cậy mến, vốn là con đường trường kỳ đối với mọi người để đạt tới ơn cứu độ (Xc Bộ giáo lý đức tin, Sứ điệp Fatima, 26-6-2000: Ench. Vat. 19. n.974-1021).

4. Bộ giáo lý đức tin này nồng nhiệt hy vọng rằng việc công bố chính thức ”Những quy tắc về cách thức tiến hành trong việc phân định những vụ hiện ra hoặc mạc khải” có thể giúp các vị Chủ Chăn của Giáo Hội trong trách vụ khó khăn là phân định những vụ gọi là hiện ra, mạc khải, các sứ điệp, hoặc tổng quát hơn, đó là những hiện tượng ngoại thường được coi là có nguồn gốc siêu nhiên. Đồng thời cũng hy vọng rằng Văn kiện này có thể được các nhà thần học và các chuyên gia trong lãnh vực này về những kinh nghiệm sống của Giáo Hội, tính chất tế nhị của chúng đòi phải cứu xét tường tận hơn bao giờ hết.

HY William Levada, Tổng trưởng
Vatican ngày 14 tháng 12 năm 2011 Lễ Thánh Gioan Thánh Giá.
Văn kiện
Nhận xét sơ khởi
Nguồn gốc và đặc tính của các qui tắc này


Trong Đại hội thường niên hồi tháng 11 năm 1974, các HY, GM thành viên của Thánh Bộ đã cứu xét vấn đề liên quan đến những vụ gọi là hiện ra và những mạc khải thường đi kèm các vụ đó, và đã đi tới những kết luận sau đây:

1. Khác với trước đây, ngày nay tin tức về các vụ hiện ra được phổ biến mau lẹ hơn nơi các tín hữu nhờ các phương tiện truyền thông. Hơn nữa, giao thông dễ dàng hơn từ nơi này sang nơi khác tạo điều kiện thuận lợi và gia tăng các cuộc hành hương. Vì thế, Giáo quyền được kêu gọi mau lẹ lên tiếng về những vấn đề ấy.

2. Đàng khác, não trạng thời nay và những đòi hỏi khoa học cũng như những đòi hỏi của việc nghiên cứu trong tinh thần phê bình cũng gây khó khăn hơn, nếu không muốn nói là hầu như không thể đưa ra những phán đoán kết luận những cuộc điều tra về vấn đề này (constat de supernaturalitate, non constat de supernaturalitate) một cách mau lẹ như trong quá khứ để các vị Bản Quyền có thể cho phép hoặc cấm việc phụng tự công khai hoặc những hình thức sùng kính khác nơi các tín hữu.

Vì những lý do đó, để lòng sùng kính của các tín hữu đối với những sự kiện ấy được biểu lộ trong niềm tôn trọng sự hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội và mang lại thành quả, - nhờ những thành quả này, chính Giáo Hội có thể phân định sau đó bản chất đích thực của các sự kiện, - các Thành Viên của Bộ giáo lý đức tin thấy, về vấn đề này, cần phải đề ra các thủ tục như sau đây:

Khi được thông báo về một vụ gọi là hiện ra hoặc mạc khải nào đó, thì Giáo quyền có nghĩa vụ:

a. Trước tiên là thẩm định sự kiện theo các tiêu chuẩn tích cực và tiêu cực (Xc dưới đây n.I)
b. Tiếp theo đó, nếu việc cứu xét này đi tới một kết luận thuận, thì Giáo quyền cho phép làm việc phụng tự và tôn kính một cách nào đó, và đồng thời tiếp tục cảnh giác về các sự kiện ấy một cách khôn ngoan thận trọng hơn nữa (điều này tương đương với công thức ”Pro nunc nihil obstare” (cho đến nay không có gì ngăn trở).
c. Sau cùng, dưới ánh sáng thời gian trôi qua và kinh nghiệm, đặc biệt là những thành quả phong phú về thiêng liêng do việc tôn kính mới mang lại, Giáo quyền công bố phán đoán về sự kiện ấy: có thực và có tính chất siêu nhiên hay không (de veritate et supernaturalitate), nếu trường hợp đó đòi hỏi.

I. Các tiêu chuẩn để phán đoán, ít là với một chắc chắn nào đó (probabilità) về tính chất của những cuộc gọi là hiện ra hoặc mạc khải

A. Các tiêu chuẩn tích cực

a. Sự chắc chắn luân lý, hoặc ít là một sự hầu như chắc chắn, về sự sự kiện có thực, sau khi đã nghiên cứu nghiêm túc.
b. Những hoàn cảnh đặc thù liên quan đến sự hiện hữu và bản chất của sự kiện, nghĩa là:
1- phẩm chất của một hoặc nhiều đương sự được thị kiến hoặc được mạc khải (đặc biệt xét xem họ có quân bình tâm lý, lương thiện và ngay chính trong đời sống luân lý, thành thật và ngoan ngoãn đối với giáo quyền, có khả năng trở lại đời sống đức tin bình thường hay không, v.v.)
2. Liên quan đến mạc khải, xét xem đạo lý thần học hoặc tu đức có chân thực và không có sai lầm hay không
3. Cứu xét về lòng sùng kính lành mạnh và thành quả thiêng liêng và bền bỉ (ví dụ tinh thần cầu nguyện, hoán cải, chứng tá bác ái, v.v.)

B. Các tiêu chuẩn tiêu cực cần xét xem có những

a. Sai lầm tỏ tường về sự kiện hay không
b. Có những sai lầm về đạo lý gán cho chính Thiên Chúa, hoặc Đức Mẹ Maria, hoặc vị thánh nào đó trong sự biểu lộ, nhưng để ý đến điều này là đương sự - có thể là vô tình - thêm những yếu tố hoàn toàn là phàm nhân hoặc vài sai lầm trong phương diện tự nhiên (Xc Thánh Ignatio, Linh thao, số 336), vào một sự mạc khải siêu nhiên đích thực. c. Xét xem có sự tìm kiếm lợi lộc rõ ràng gắn liền với sự kiện hay không
d. Xét xem có những hành vi vô luân trầm trọng của đương sự hoặc những đồ đệ của họ, trong lúc hoặc nhân dịp xảy ra sự kiện ấy hay không.
e. Các bệnh tâm lý hoặc xu hướng tâm bệnh nơi đương sự, chắc chắn đã ảnh hưởng trên điều gọi là sự kiện siêu nhiên, hoặc tâm bệnh, cuồng loạn tập thể hoặc các yếu tố cùng loại.
Cần để ý rằng những tiêu chuẩn tích cực và tiêu cực chỉ có tính chất hướng dẫn chứ không đầy đủ và phải được áp dụng chung hoặc một cách bổ xung cho nhau.

II. Sự can thiệp của Giáo quyền liên hệ

1. Trong dịp xảy ra sự kiện gọi là siêu nhiên ấy, nếu các tín hữu tự động thực hiện một việc phụng tự hoặc sùng kính nào, thì Giáo quyền liên hệ có nghĩa vụ hệ trọng phải mau lẹ tìm hiểu và tiến hành việc điều tra cẩn thận.

2. Giáo quyền liên hệ có thể can thiệp, theo sự thỉnh cầu hợp pháp của giáo dân (trong niềm hiệp thông với các vị Chủ chăn, chứ không phải do tinh thần phe phái), để cho phép hoặc cổ động một vài hình thức phụng tự hoặc sùng kính, nếu sau khi áp dụng các tiêu chuẩn trên đây, mà không thấy có gì trở ngại. Nhưng Giáo quyền phải quan tâm làm sao để các tín hữu không giải thích việc cho phép như thế là Giáo Hội phê chuẩn tính chất siêu nhiên của sự kiện.

3. Do trách vụ về đạo lý và mục vụ, Giáo quyền liên hệ có thể tự động can thiệp; và Giáo quyền phải làm như vậy trong những trường hợp hệ trọng, ví dụ để sửa chữa hoặc phòng ngừa những lạm dụng trong việc phụng tự hoặc sùng kính, để lên án đạo lý sai lầm, để tránh những nguy cơ thần bí sai lầm hoặc không tưởng, v.v.

4. Trong những trường hợp nghi ngờ, không làm cho thiện ích của Giáo Hội bị nguy hiểm, Giáo quyền liên hệ nên tránh đưa ra phán hoặc và những hành động trực tiếp (vì có thể xảy ra là sau một thời gian nào đó, những sự kiện gọi là siêu nhiên ấy bị quên lãng); nhưng không nên ngưng cảnh giá để can thiệp nếu cần; với sự mau lẹ thận trọng.

III. Nhà chức trách có thẩm quyền để can thiệp

1. Trên hết, vị Bản Quyền địa phương có nghĩa vụ phải canh chừng và can thiệp

2. HĐGM miền hoặc quốc gia có thể can thiệp:
- nếu Bản quyền địa phương, sau khi đã chu toàn phận vụ của mình, yêu cầu HĐGM để phân định một cách chắc chắn hơn về sự kiện
- Nếu sự kiện đã thuộc về lãnh vực quốc gia hoặc miền, luôn luôn cần phải có sự đồng ý trước đó của Bản quyền địa phương
3. Tòa Thánh có thể can thiệp, hoặc theo lời thỉnh cầu của chính Bản quyền, hoặc của một nhóm tín hữu đáng kể, hoặc cũng có thể trực tiếp chiếu theo quyền tài phản hoàn vũ của ĐGH (Xc dưới đây IV)

IV. Can thiệp của Bộ giáo lý đức tin

1. a. Bản quyền địa phương, sau khi đã thi hành phần của mình, hoặc một nhóm tín hữu có tư cách, có thể xin sự can thiệp của Bộ giáo lý đức tin. Trong trường hợp nhóm tín hữu ấy thỉnh cầu, thì cần đặc biệt để xem việc nại đến Thánh Bộ có phải vì những lý do đáng ngờ vực hay không (ví dụ chủ ý muốn bó buộc vị Bản quyền phải thay đổi quyết định hợp pháp của ngài, để phê chuẩn nhóm phe phái nào đó, v.v.
b. Thánh Bộ cũng có thể tự ý can thiệp trong những trường hợp hệ trọng nhất, đặc biệt là khi sự kiện ấy liên hệ tới một phần lớn của Giáo Hội, nhưng luôn luôn sau khi tham khảo Bản quyền, và nếu thình hình đòi khỏi, thì tham khảo cả HĐGM nữa.

2. Thánh Bộ có thẩm quyền phán quyết và phê chuẩn cách thức tiến hành của Bản quyền, hoặc nếu thấy là có thể và thích hợp, thì tiến hành một cuộc cứu xét mới về sự kiện, khác với sự cứu xét của Bản quyền hoặc do chính Thánh Bộ, hoặc do một Ủy ban đặc biệt.
Những quy tắc này, được quyết định trong khóa họp toàn thể của Thánh Bộ, đã được ĐGH Phaolô 6 phê chuẩn ngày 24-2-1978

Roma tại trụ sở Thánh Bộ giáo lý đức tin ngày 25-2-1978

ĐHY Franjo Seper, Tổng trưởng,
TGM Jérôme Hamer OP, Tổng thư ký

LM Trần Đức Anh OP chuyển ý
Nguồn:  http://www.vietcatholic.net/News/Html/98171.htm

Dienstag, Mai 29, 2012

Một tầm nhìn đại kết về vai trò của Đức Maria trong kế hoạch Thiên Chúa và trong hiệp thông các thánh (7)

Vũ Văn An5/28/2012

II. Điều thứ hai: Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Đấng Kitô, Chúa, và là Con Thiên Chúa

Điều thứ hai của Kinh Tin Kính tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô và là Chúa; điều này cũng nêu danh Đức Maria là Mẹ của Người. Khi làm như vậy, Kinh Tin Kinh đã tóm lược giáo huấn của Tân Ước về Đức Maria, coi nó như tâm điểm của giáo huấn này. Như thế, điều hai của Kinh Tin Kính cho ta thấy chỗ đứng của Đức Maria trong kế hoạch Thiên Chúa và trong lịch sử cứu rỗi.

Chính trong khung cảnh mới này, ta phải trở về với các đoạn chính trong Tân Ước nói về Đức Maria và đọc chúng trong viễn tượng đại kết, nghĩa là, rút ra điều, theo chúng tôi, thuộc đức tin mà ai cũng thừa nhận.

Ý định của chúng tôi ở đây, do đó, không trực tiếp có tính chú giải, dù chúng tôi rất muốn dựa trên các kết quả đã được thiết lập vững chắc của nền bác học hiện đại. Chúng tôi không có tham vọng tái dựng tiểu sử và lịch sử. Chúng tôi chỉ dựa vào các bản văn đã có trong trình thuật Tin Mừng. Cho nên, việc chúng tôi đọc bản văn sẽ chỉ có tính tín lý và suy niệm.

Chúng tôi sẽ bắt đầu với các trình thuật giáng sinh và tuổi thơ của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Mátthêu và Luca; các trình thuật này không được đưa ra như một xét duyệt các ký ức về Đức Mrai và Thánh Giuse nhưng đúng hơn như một giải thích mầu nhiệm Con Thiên Chúa xuống trần gian, dưới ánh sáng đức tin Phục Sinh. Sau đó, ta sẽ xem sét trình thuật trong Tin Mừng Gioan, và kết thúc bằng cách nhắc lại các đoạn trong Tin Mừng Nhất Lãm, trong Tin Mừng Gioan và trong Tông Đồ Công Vụ có liên quan tới mẹ và anh em của Chúa Giêsu (6).

1. Tin mừng tuổi thơ theo Thánh Mátthêu (1-2)

Trong hai chương này, Đức Maria có một vị trí khiêm tốn và là một vai thụ động. Mặc dù từ trình thuật này, ta không rút ra được cả đức tin lẫn hành trình bản thân của Đức Maria, nhưng trình thuật này quả có đặt Chúa Giêsu vào lịch sử Israel và, đồng thời, cho thấy kế hoạch của Thiên Chúa đã được thực hiện qua việc Người bước vào thế giới mà chính Thiên Chúa đã dựng nên.

Vì Chúa Giêsu Nadarét hoàn toàn mặc lấy thân phận con người cả về thời gian lẫn không gian qua gốc gác của Người là dân Israel, nên Người có một gia phả. Thánh Mátthêu trình bày một loạt các tổ tiên mà về con số và độ dài được tượng trưng thành 14 thế hệ từ Ápraham tới Đavít, 14 thế hệ từ Đavít tới cuộc lưu đày qua Babylon, và 14 thế hệ từ lưu đày tới Đấng Mêxia. Nhưng việc lặp đi lặp lại cùng một kiểu các tổ tiên phái nam đã 4 lần được ngắt quãng để nhắc đến các phụ nữ: Rakháp và Rút, cả hai đều là người ngoại quốc, có mặt ở đây để minh chứng rằng toàn thể nhân loại được mời gọi chia sẻ ơn cứu rỗi với dân Israel; Tama, con dâu Giuđa, và Bátseva, vợ Tướng Urigia trước khi trở thành vợ Vua Đavít, có mặt ở đây để nhắc nhở ta rằng lời hứa vẫn được tiến hành bất chấp sự yếu đuối của một tổ phụ (xem St 38) và của một vị vua (xem 2Sm 11-12) và, một cách nghịch lý, vẫn cần có sự hỗ trợ của họ. Bốn người phụ nữ này và 4 lần sinh “bất thường” xẩy ra đối với họ là để chuẩn bị cho độc giả đón nhận việc nhắc đến Đức Maria và việc sinh hạ Chúa Giêsu, là những điều mang sắc thái ngoại thường sẽ được nói đến sau này trong chính trình thuật.

Thánh Mátthêu nêu danh cha mẹ của Chúa Giêsu với nhau, chứ không tách biệt các ngài ra: Thánh Giuse, chồng Đức Maria (1:16), và, Đức Maria vợ Thánh Giuse (1:24). Qua đó, ngài chứng tỏ rõ ràng rằng giống mọi bé thơ khác, Chúa Giêsu bước vào trần gian với một người cha và một người mẹ: vai trò biểu tượng của người thứ nhất bổ túc cho vai trò không kém biểu tượng của người thứ hai.

Khi gán cho Thánh Giuse điều mà Thánh Luca nói về Đức Mẹ (đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu; mạc khải của thiên thần), Thánh Mátthêu không thể bị coi là đối nghịch với Tin Mừng thứ ba. Ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến dòng dõi Đavít của Chúa Giêsu và vai trò của Thánh Giuse, lãnh trách nhiệm hoàn toàn làm chủ gia đình, và đức tin của ngài vào lời Thiên Chúa.

Chúa Giêsu không thể sinh ra mà không có cha đích danh thế nào, thì Đức Maria cũng không thể hiện hữu mà tách biệt khỏi Thánh Giuse, người mà ngài là vợ, và Chúa Giêsu, Đấng mà ngài là mẹ. Trong chương 2 Tin Mừng Mátthêu, Con Trẻ luôn được nhắc đến trước mẹ Người (các câu 11, 13, 20 và 21).

Đức Maria vừa là người sinh hạ vừa là người mẹ, Thánh Giuse chỉ là người cha theo pháp luật. Tuy nhiên, sự kiện sau không làm vai trò của thánh nhân kém quan trọng, vì tuy không phải là người sinh hạ, ngài quả thực là người cha chân chính và có trách nhiệm đối với căn tính nhân bản và tôn giáo của Chúa Giêsu. Như thế, lời hứa với tổ tiên về một Đấng Mêxia cho Israel đã nên trọn nhờ một người mẹ đồng trinh và một người cha dưỡng nuôi. Đây quả là sự mới mẻ chính của sự sinh hạ này khi đem so sánh với các sự sinh hạ của huyền thoại học.

Thánh Mátthêu rất thận trọng liên kết trình thuật “truyền tin cho Thánh Giuse” này với các lời tiên tri về Đấng Mêxia và do đó làm nổi bật ý nghĩa của việc sinh hạ này: Đấng Emmanuen, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (1:23; xem 28:20) sẽ phải sinh ra từ một trinh nữ (7); việc sinh hạ này phải xẩy ra tại Bêlem, vương thành của Đavít (2:6); cùng với gia đình, Con Trẻ sẽ phải trải nghiệm một cuộc đời du mục, theo cung cách tổ phụ Giuse và các anh em ông, rồi của Môsê và dân ông, giữa cuộc trốn chạy qua Ai Cập và cuộc xuất hành mới (2:15).

Vì quan tâm định vị nhân tính của Đấng Mêxia trong lịch sử giao ước và như cư dân đất “thánh”, Thánh Mátthêu không giải đáp các câu hỏi, cả xưa kia lẫn hiện nay, của những người có tâm trí tò mò và đầu có óc nghi ngờ duy lý. Sự kiện Đức Maria là một trinh nữ khi con trai đầu hạ sinh là một công bố có tầm quan trọng thần học về căn tính của Người Con; nó không phải là lời xác quyết tính trong sạch luân lý của người mẹ. Điều quan trọng là tỏ lòng tôn kính đối với mầu nhiệm và mời ta chú ý tới việc sinh hạ thật sự độc đáo nhờ một dấu hiệu.

Việc lưu truyền chương thứ nhất của Tin Mừng Mátthêu cho thấy nhiều dị bản có thể dẫn tới những quan điểm mâu thuẫn liên quan tới việc sinh hạ trong câu 25 chẳng hạn. Nhưng không ai có thể hoài nghi về lời quả quyết chính, một lời quả quyết rất phù hợp với Tin Mừng Luca: đó là việc thụ thai Chúa Giêsu mà không cần đến sự can thiệp của người nam.

Trong đức tin, tất cả chúng ta tuyên xưng điều ta được tin mừng thơ ấu của Thánh Mátthêu truyền dạy về Chúa Giêsu, Đấng Mêxia-Kitô, Đấng Emmanuen và là Đấng Cứu Thế, và về Thánh Giuse, cha hợp pháp của Người, và Đức Maria, mẹ đồng trinh của Người.

2. Tin mừng tuổi thơ theo Thánh Luca (1-2)

Giống Tin Mừng Mátthêu, Tin Mừng Luca cũng đặt Chúa Giêsu vào lịch sử dân Israel và nhấn mạnh tình thế mới được Người khởi đầu. Đức Maria là người bảo đảm các gốc rễ đó, và là dấu chỉ của sự mới mẻ này. Ngài là đại biểu tiên khởi của đức tin vào Chúa Kitô. Đồng thời, trong tư cách là Mẹ Chúa Giêsu, ngài hẳn phải từ khước việc chiếm hữu Đấng chính là Con Thiên Chúa. Đức tin, từng chào đón Chúa Kitô vào lòng ngài, không thể hạ thấp Đấng vốn siêu việt ngài về mọi mặt. Toàn bộ câu truyện sinh hạ Chúa Giêsu, xét cho cùng, là lời mời gọi ca ngợi Thiên Chúa tín trung, Đấng đang đem lại ơn cứu độ cho thế gian nhờ Con Trẻ này.

A. Truyền Tin

Trong Thánh Kinh, các thiên thần đóng vai bản vị hóa các sứ điệp từ Thiên Chúa gửi tới. Trong Cựu Ước, thiên thần Gabrien từng là sứ giả tin mừng về Con Người (Đn 8:16). Sau khi được phái tới với Giacaria, thiên thần này đã đến báo tin cho Đức Maria tin mừng sẽ đem đến cho ngài niềm vui lớn.

Đức Maria được mô tả là parthenos theo câu Isaia 7:14 trong bản Hy Lạp. Trước nhất, hạn từ này chỉ một phụ nữ trẻ chưa có chồng. Nhưng ở đây, nó được sử dụng với nghĩa trinh nữ, và điều này được xác nhận bởi lời tuyên bố của Đức Maria rằng ngài không “biết” bất cứ người đàn ông nào, nghĩa là ngài không có liên hệ vợ chồng, và do đó, việc sinh hạ vừa tuyên bố thực sự do một trinh nữ. Tuy thế, Đức Maria được tường thuật là đã đính hôn với Thánh Giuse, một việc nhằm nối kết ngài với dòng dõi Đavít.

Là mẹ và là người đồng trinh, Đức Maria không đơn giản chỉ đứng trong hàng ngũ một số phụ nữ được nhấn mạnh trong Cựu Ước. Ngài tách biệt với họ nhờ việc thụ thai đồng trinh, một việc đã biến đổi ý nghĩa của cả sự đồng trinh lẫn chức phận làm mẹ của ngài. Một mặt, sự đồng trinh của Đức Maria không phải chỉ là một điều kiện để ngài kết hôn với Thánh Giuse; ngài vẫn đồng trinh ngay khi đã thụ thai. Mặt khác, chức phận làm mẹ của Đức Maria không thể bị đồng hóa với trải nghiệm lạ lùng của một người đàn bà son sẻ sinh con: sự kỳ diệu ở đây là Đức Maria sinh con mà không hề “biết” người đàn ông nào (8). Như thế, sự đồng trinh của Đức Maria không ngăn cản ngài làm mẹ, mà sự kiện làm mẹ Chúa Giêsu cũng không đặt nghi vấn nào cho sự đồng trinh ấy. Hoàn cảnh độc nhất này là do kế hoạch của chính Thiên Chúa, Đấng quyết định, nhờ Đức Maria, lấy nhục huyết trong lịch sử nhân bản. Sự kiện một người đàn bà được Thánh Thần Hóa Công ngự xuống mà vẫn còn đồng trinh chính là dấu chỉ của sự quyết định ấy. Một khi được bóng của Đấng Tối Cao đụng tới, ngài lập tức trở nên như đền thờ của Đấng đang đến thế gian qua ngài. Nữ trinh và là mẹ: thực tại mới này chỉ cho thấy mầu nhiệm do Thiên Chúa thực hiện bằng cách biến Đức Maria, một phụ nữ trong mọi phụ nữ, trở thành mẹ của Con duy nhất Người.

Thiên thần chào Đức Maria là người đã được ban ơn thánh: Chúa ở cùng ngài. Kiểu nói ở thể thụ động: “Đầy ơn phúc” nhấn mạnh tới điểm: ơn thánh nơi Đức Maria là kết quả của hồng ơn trao ban và tiếp nhận (9). Ơn thánh ấy không phải là một sự vật; nó là phẩm tính của mối liên hệ giữa ngài và Thiên Chúa; trước mặt Đấng này, “được sủng ái” (1:30).

Sứ điệp của thiên thần đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu. Đó cũng là tên Giosuê, người đã đem dân Chúa chọn tới Đất Hứa. Nó cũng có ý mô tả Con Trẻ là Đấng Mêxia. Tên này mặc cho Con Trẻ thật nhiều tước hiệu huy hoàng. Điều nghịch thường, là tất cả tuyên bố long trọng ấy đã chỉ để loan báo cho một cô gái thật tầm thường ở vùng tăm tối Nadarét, một làng quê chưa bao giờ muốn được danh tiếng.

Nhưng tất cả các việc ấy không dễ hiểu chút nào, và Đức Maria cố gắng hiểu chúng. Câu hỏi của ngài buộc thiên thần phải lên tiếng một lần nữa. Thế là trong công bố mới và long trọng, thiên thần Gabrien tiết lộ rằng Con Trẻ sẽ là chính Con Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần, Đấng vốn thi hành vai trò sáng tạo và ban sự sống từ lúc khởi nguyên thế giới (St 1:2), sẽ lại thi hành vai trò ấy nơi Đức Maria. Ở đây, không một từ ngữ nào hàm ý việc giao tiếp xác thân.

Khi đã tin vào lời thiên thần liên quan đến mình, ngài cũng có thể tin thiên thần khi thiên thần nói với ngài tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện cho người chị em họ của ngài. Việc nhắc tới bà Êlisabét muốn chứng tỏ rằng không có điều gì là không thể đối với Thiên Chúa. Người ta chỉ cần tin vào lời hứa, thì Thiên Chúa sẽ khứng ban sự sống.

Khi tự xưng mình là nữ tì của Chúa, Đức Maria, tuy không hề là nữ tì về mặt xã hội, đã cho thấy ngài sẵn sàng để Chúa tự do sử dụng, dĩ nhiên đó là cung cách tự do và có trách nhiệm của ngài. Như “con mắt nữ tì” luôn hướng về tay nữ chủ (Tv 123 [122]: 2) thế nào, Đức Maria cũng tự đặt mình phục dịch Đấng cũng sẽ tự mình mang lấy thân phận tôi đòi (Pl 2:7).

Khi giục ta tuyên xưng rằng Chúa Giêsu, Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa, “xuống thai bởi Chúa Thánh Thần và được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria”, Kinh Tin Kính đã tóm lược tâm điểm của sứ điệp truyền tin. Đức Maria được nêu tên vì lý do ngài tham dự vào mầu nhiệm cứu rỗi, một tham dự mà ngài đã được chọn để tham dự. Đức Maria, là trinh nữ, là mẹ, và là nữ tì, đã đi trước chúng ta trong đức tin vào Ngôi Lời Nhập Thể.

B. Thăm Viếng

Thăm Viếng cho ta thấy niềm vui và ơn của Chúa Thánh Thần hay lây lan như thế nào. Đức Maria vừa tiếp nhận sứ điệp thiên thần là ngài vội vã đi viếng người chị em họ ngay và cùng với người chị em họ này cảm nghiệm cả một tuôn trào lần đầu hết ơn Thần Khí tiên tri xuống trên họ. Việc lên đường của ngài cũng là một đáp ứng đức tin của ngài đối với ơn thánh.

Khi bà Êlisabét nghe thấy lời chào hỏi của Đức Maria, con trai bà là Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng hân hoan trong lòng bà, hớn hở vì hạnh phúc (xem Lc 6:23); trong khi mẹ cậu đầy Chúa Thánh Thần, đã trở nên một tiên tri. Giọng nói tiên tri nhân bản đầu hết cho những lời tiên tri trong Tân Ước là giọng nói của một người phụ nữ thế nào, thì sứ điệp đầu hết của phục sinh cũng sẽ là giọng nói của phụ nữ như thế.

Trước nhất, các lời tiên tri của Bà Êlisabét là một lời chúc tụng. Giữa mọi người phụ nữ, Đức Maria là người tiếp nhận sự chúc phúc đặc biệt, sự chúc phúc làm ngài trở thành Mẹ Đấng Mêxia, Đấng Diễm Phúc Tột Cùng. Bà Êlisabét cũng đã biến thành của riêng kinh tuyên xưng đức tin, vì nơi mẹ Chúa Giêsu, bà đã nhận ra người mẹ của Đấng cứu rỗi mình. Do đó, bà đã thốt ra mối phúc đầu hết, mối phúc ca ngợi đức tin: Đức Maria có phúc vì ngài tin rằng ngài sẽ trở nên mẹ Đấng Mêxia.

Thế rồi Đức Maria ngâm bài ca bất hủ của ngài: Kinh Magnificat. Dựa vào ca khúc của Anna (1Sm 2:1-10) và một số lời khác của các tiên tri và thánh vịnh, ca khúc này, trước nhất, nói tới những điều liên quan tới chính bản thân ngài, nhưng trong cung cách vừa ca ngợi và cảm tạ vừa tránh nói tới mình vì điều đang xẩy tới cho ngài thực ra là vì thế giới và sẽ được áp dụng cho hết thế hệ này tới thế hệ nọ.

Chính vì vậy, ngài cho rằng mọi thế hệ sẽ khen ngài diễm phúc. Đấy chính là căn bản của lời ca ngợi Thiên Chúa đầy kỳ diệu mà giáo hội mọi thời được thúc giục hát lên để đáp trả hồng ân mà Đức Maria đã tiếp nhận.

Sau đó, Mẹ Chúa Giêsu cử hành đức công chính của Thiên Chúa đối với nhân loại bị thương tích, cũng như lòng trung thành của Người đối với dân mình. Ngài đọc lại như mới lịch sử cứu rỗi và nối kết nó với những gì đang xẩy tới với ngài. Ngài cảm phục kế hoạch nghịch thường của Thiên Chúa, Đấng tới để giúp đỡ người thấp hèn, nghèo khó, và đói ăn, ngõ hầu đem lời đã hứa với Ápraham tới chỗ nên trọn cho họ và qua họ.

Cảnh Thăm Viếng thúc giục giáo hội, cùng với và như Đức Maria và Bà Êlisabét, bước vào vòng ca ngợi Thiên Chúa vì con đường nhân bản trên đó Người đã tới ở giữa chúng ta và, cùng với những người thấp hèn, bắt tay vào việc đổi mới thế giới.

C. Giáng Sinh

Cho tới đây, Thiên Chúa vẫn trực tiếp điều hướng các biến cố. Tuy nhiên, từ đây trở đi, xem ra Thánh Luca muốn nhấn mạnh tới các can thiệp của con người. Những can thiệp này sẽ ảnh hưởng tới việc thể hiện mầu nhiệm và đặt đức tin của Đức Maria và Thánh Giuse vào thế bị thử thách. Trước nhất, ta có sắc lệnh của Xêda Augustô buộc các vị phải lên đường. Nhưng chính sự kiện này chứng tỏ cho ta thấy việc sinh hạ của Chúa Giêsu không phải là một huyền thoại, vì nó xẩy ra vào một thời và tại một nơi trong lịch sử hoàn vũ, giống như việc Chúa chịu chết sẽ xẩy ra dưới thời Phongxiô Philatô.

Chính tại Bêlem, Đức Maria sinh hạ Con Trai “đầu lòng”. Kiểu nói này đặt Chúa Giêsu vào khuôn khổ luật Do Thái (Xh 13:15) và hướng tầm mắt ta vào việc dâng Người tại Đền Thờ. Vì Trẻ Sơ Sinh này chia sẻ các đặc ân cũng như bổn phận vốn thuộc mọi trẻ trai đầu lòng. Chứ kiểu nói này không hề có tính quyết đoán về việc em có mãi mãi là người con duy nhất hay không (10).

Ta nên lưu ý đến sự tương phản giữa hai phần của cảnh trên. Trước nhất, là tường trình khá chừng mực về hoàn cảnh khó khăn chung quanh việc sinh hạ Chúa Giêsu; chừng mực đến mức như ta đang đọc một mẩu tin ngắn. Nhưng sau đó là sự tỏ hiện sáng láng vinh quang Thiên Chúa (thần hiện) và một mạc khải mới được các thiên thần chuyển tải.

Dấu chỉ đầu tiên được ban cho người tin vào Chúa Kitô là một con trẻ nghèo hèn mới sinh, được quấn trong tã và đặt nằm trong máng cỏ: đó là dấu chỉ biện phân của Chúa Giêsu. Đức Maria và Thánh Giuse bao quanh con trẻ và trình bày con trẻ như đối tượng của niềm tin cho các mục đồng và sau đó, cho toàn thể giáo hội.

Chúng ta được dạy rằng Đức Maria “trân trọng gìn giữ tất cả những lời đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Vì khoảng phân cách giữa sự nhỏ bé của dấu chỉ và sự vĩ đại của các tước hiệu được ban cho Con Trai mình, Đức Maria cần hướng vào trong chính ngài và nội tâm hóa tất cả những gì đang xẩy ra và tất cả những gì ngoại thường được nói về con người nhân bản tí hon là chính Con Trai của mình này. Ngài đang tiến bước trên hành trình niềm tin của ngài.

Tám ngày sau, Con Trẻ được cắt da qui đầu, phù hợp với luật lệ Do Thái. Người được đặt tên là “Giêsu” như đã được loan báo trước khi Người được dựng thai. Chu kỳ sinh hạ của Chúa Giêsu đến đây hoàn tất.

Các giáo hội thờ phượng Trẻ Sơ Sinh được bọc tã và nằm trong máng cỏ này. Giữa cảnh yếu đuối, nghèo khó, và thấp hèn của máng cỏ, họ dâng cho Người mọi tước hiệu diệu kỳ của Thiên Chúa:Người là Chúa tạo vinh quang cho Thiên Chúa Cha. Khi các công đồng chung của thế kỷ thứ năm dành tước hiệu Theotokos (Mẹ Thiên Chúa) cho Nữ Tì của Chúa, người đã đem Chúa vào trần gian, họ đã làm thế không phải để tôn vinh ngài mà chủ yếu để tuyên xưng rằng Đấng được ngài sinh ra theo xác thân chính là Chúa và là Thiên Chúa của ngài.

D. Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ

Bằng việc lên Giêrusalem lần đầu để dâng Con Trẻ vào Đền Thờ (Lc 2:22 tt), cả Đức Maria và Thánh Giuse đều làm chứng cho gốc rễ của Chúa Giêsu trong lịch sử Do Thái và cho sự kiện Người thuộc về Thiên Chúa. Các ngài tuân theo các nghi thức được luật Môsê qui định: việc thanh tẩy mẹ cũng là việc dâng hiến con trai đầu lòng.

Việc dâng con tại Đền Thờ này là dịp cho một mạc khải tiên tri, vì hai người cao niên tới gặp Con Trẻ: Simêong ẵm Chúa Giêsu vào đôi tay và nhận ra ơn cứu chuộc của Thiên Chúa trong Em Bé, và Anna, người cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa và kể cho mọi người chung quanh về Con Trẻ. Con Trẻ này sẽ tự chứng tỏ mình là ánh sáng thế gian và do đó thực thi ơn gọi của Israel.

Simêong cũng nói tiên tri rằng Chúa Giêsu sẽ là dấu chỉ của mâu thuẫn và tâm hồn Đức Maria sẽ bị một lưỡi gươm đâu thâu qua (Lc 2:34-35). Mẹ Chúa Giêsu được kêu gọi không phải chỉ để trải nghiệm việc tách ly mà mọi người mẹ phải tập cho có đối với đứa con của mình; mà số phận bi thảm của Con Trai ngài sẽ còn tiếng vang đau đớn hơn nhiều trong lòng ngài. Đức tin của ngài sẽ không giúp ngài tránh khỏi trải nghiệp âu lo hay việc không thể hiểu; đức tin của ngài sẽ phải lớn mạnh để chịu đựng các thử thách do mạc khải Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa gây ra cũng như việc nên trọn đầy nghịch thường sứ mệnh của Người trên thánh giá mà người ta đã thoáng thấy ở chân trời.

Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu lúc Người được dâng hiến tại Đền Thờ, giáo hội tuyên xưng Người không phải chỉ là “vinh quang của Israel, dân Người”và “ánh sáng muôn dân”mà còn là Đấng mà ơn gọi sẽ dẫn Người tới thánh giá. Trong lời tiên tri, Mẹ Người cũng sẽ chịu cùng một thử thách dứt khoát ấy.

E. Chúa Giêsu lạc và được thấy lại trong Đền Thờ

Điều Simêong tiên báo trước đây bắt đầu nên trọn khi cha mẹ Chúa Giêsu lại lên Giêrusalem lần nữa (Lc 2:41 tt). Cuộc hành hương để mừng Lễ Vượt Qua của người Do Thái này có một hậu quả bất ngờ và đáng buồn. Cha mẹ phải lặn lội đi tìm người con đang tránh né mình và qua Đức Maria các ngài cho ta hay các lo âu và thiếu hiểu biết của mình. Nhưng khi Con Trẻ được thấy lại giữa các bậc thầy, Người tự tỏ mình cho Đức Maria và Thánh Giuse, cha nuôi, Người là Con Thiên Chúa, Cha đích thực của Người. Người mời gọi cha mẹ “hồi tâm”: để nhìn nhận căn tính đích thực của Người như là Đấng phải lo lắng việc của Cha mình. Cũng như lúc hạ sinh, giờ đây Đức Maria “giữ” (11) tất cả các biến cố ấy trong tâm hồn, dù ngài không hiểu thấu; tâm hồn này quả đã bị lưỡi gươm sắc thâu qua.

Đức Maria là người phụ nữ phải chấp nhận sự kiện này: Con Trai ngài đang thoát ra ngoài quyền kiểm soát của ngài, ngõ hầu ngài có thể chấp nhận Người trong con người thật của Người. Đức Maria đang tiến bước trong bóng đêm của thử thách. Đến lượt mình, giáo hội cũng phải dùng đức tin mà nhìn nhận rằng đầu hết và trên hết, Người là Con Đức Chúa Cha.

3. Tin Mừng Gioan

Trong khi phúc âm gia Gioan gọi Đức Maria là “Mẹ Chúa Giêsu”, thì Chúa Giêsu lại là người mạc khải và chỉ định ơn gọi cho Đức Maria bằng cách gọi ngài là “bà” (woman) và chỉ định ngài làm mẹ của môn đệ yêu dấu của Người khi ngài đứng dưới chân thánh giá.

Hai đoạn trong Tin Mừng Gioan (2:1-5 và 19:25-27) mô tả Đức Maria làm mẹ một cách rất căn bản: một ở đầu và lúc kết thúc biến cố ở Cana, một sau đó ở dưới chân thánh giá. Nhưng hai đoạn này cũng nhấn mạnh tới khoảng phân cách mà Chúa Giêsu muốn đặt giữa mẹ của Người và chính Người, xét vì ở cả hai biến cố ấy, Người xưng hô với mẹ là “bà”, chứ không phải là “mẹ”. Phải chăng Người không muốn nghĩ đến Đức Maria như người đem mình vào đời? Không phải thế, đúng hơn, ngữ văn trên chứng tỏ rằng Người muốn dành cho Đức Maria một vai trò vượt trên vai trò chỉ là mẹ về thể lý.

Tại Cana, Đức Maria không xin gì cùng Chúa Giêsu, mà là tiết lộ một sự kiện sẽ có ảnh hưởng tới việc tiệc tùng. Chính Đức Maria cho người ta thấy bữa tiệc không diễn tiến tốt. Đó là cách ngài “cầu bầu” với Con Trai mình. Ở đây, qua việc can thiệp của mình, ngài đã cho thấy các tín hữu nên lắng nghe các đồng loại nhân bản của mình và làm cho các nhu cầu của họ được biết tới ngõ hầu Chúa Giêsu đến giúp đỡ họ.

Người đang chạm trán với các nhu cầu này là chính Chúa Giêsu, Đấng mà, vào giờ này đây, sứ mệnh được coi như cân bằng một cách chênh vênh: “giờ của Người chưa đến”. Chúa Giêsu hiện diện ở chốn tiệc tùng nhân bản không phải để thoả mãn nhu cầu người ta cảm nghiệm ở đấy, nhưng là để tỏ vinh quang của mình ra và linh hứng cho đức tin của người ta. Chính mục tiêu sau đã được Người cho biết trước bằng cách thực hiện dấu lạ. Cái nhìn thần học của tin mừng đã tự biểu lộ cách đó. Đức Maria hiện diện lúc cái nhìn đó được biểu lộ dù ngài chưa hiểu rõ.

Câu hỏi gây bối rối “Việc đó có liên quan gì tới bà và con?” không chỉ đơn thuần nhấn mạnh tới các giới hạn của Đức Maria, là người đến lúc đó chưa hiểu ngay cách thế và thời gian vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ hiện ra sao. Nó cũng mời gọi ngài tiếp nhận cái nhìn của Con Trai mình và từ bỏ sáng kiến riêng để đi theo sáng kiến của Người. Người ta có thể nói rằng theo nghĩa đó, câu truyện tại Cana là điểm mốc đánh dấu việc Đức Maria đang trên đường hồi tâm, vì qua đó, ngài hiểu rằng vai trò của ngài là hướng dẫn các gia nhân đến với Con Trai mình và lắng nghe lời Người cùng vâng theo lời ấy một cách trọn vẹn.

Đức Maria sẽ tự trải nghiệm điều này là sự vâng theo sứ điệp ấy và lời kêu gọi từ bỏ mình sẽ là nguồn đem lại sự chúc phúc. Đầy tin tưởng, ngay cả trước khi biết Chúa Giêsu sẽ làm gì, ngài có thể nói với các gia nhân: “hãy làm bất cứ điều gì Người bảo các ông”, qua đó, thúc giục họ hành động bằng đức tin, một đức tin chưa hề nghe nói tới như chính đức tin của ngài.

Việc “trở nên môn đệ” từng có nơi các gia nhân tại tiệc cưới Cana sẽ một lần nữa được tìm thấy nơi con người của môn đệ yêu quí. Đức Maria chấp nhận và biến thành của mình mối liên hệ gia nhân- môn đệ. Ngài hiện diện cả trong nhóm gia đình lẫn trong cộng đoàn môn đệ. Ngài tùng phục mối liên hệ kép đó và đồng ý chuyển dịch từ liên hệ đầu qua liên hệ sau, nhưng ngài sẽ chỉ bước trọn vẹn vào mối liên hệ sau sau biến cố đóng đinh: ở đó, Mẹ Chúa Giêsu sẽ trở thành mẹ môn đệ. Chúa Giêsu chịu đóng đinh kêu gọi ngài, vốn là mẹ tự nhiên của Người, trở nên mẹ các môn đệ được người môn đệ yêu quí đứng làm đại biểu, tức người môn đệ hết sức gần gũi với Thầy trong khổ nạn và trong phục sinh.

Tin Mừng Gioan lên cấu trúc cho 3 yếu tố: Maria-Mẹ-Chúa-Giêsu, Maria-Phụ Nữ, và Maria-mẹ-các môn đệ, theo cách định độ thần học: Khởi đi từ Maria “Mẹ Chúa Giêsu, Tin Mừng này diễn tiến với Maria phụ nữ để tới Maria “mẹ các môn đệ”, một chức phận làm mẹ mới, thuộc một trật tự khác với trật tự đầu tiên, một chức phận làm mẹ được giáo hội tuyên xưng cùng với Tin Mừng này.

Đức Maria và gia đình Chúa Giêsu

Tuy không chối liên hệ máu mủ hay chức phận làm mẹ thể lý của Đức Maria, Chúa Giêsu từng tương đối hóa hai sự kiện đó. Không những thế, Người còn từ khước không hề coi họ như những người ưu tiên: Mẹ của Người, anh em của Người, chị em của Người là những ai thực hiện thánh ý Thiên Chúa (Lc 8:19-21 và câu song song Lc 11: 27). Như thế, Chúa Giêsu coi Mẹ của Người là một tín hữu và là một người phục dịch.

Những ai được các Tin Mừng Nhất Lãm mô tả là “anh em của Chúa Giêsu” cũng được kêu gọi tiến xa hơn cái hiểu trực tiếp về Người như là thành viên gia đình, và mở lòng mình ra đón nhận mạc khải về căn tính sâu xa của Người. Khi được thông báo rằng Mẹ và anh em của Người ở bên ngoài muốn tìm Người, Chúa Giêsu đáp lại rằng Mẹ và anh em của Người thực sự là những ai “nghe lời Thiên Chúa và thực hành lời ấy” (Lc 8:19-21 và những câu song hành). Ở đây, ta thấy có một khoảng cách giữa Chúa Giêsu và nhóm gia đình mà Người là thành viên; nhưng khoảng cách còn đau hơn nữa với Mẹ của Người mới cho thấy lưỡi gươm được Simêong nói tiên tri (Lc 2:35) quả đã đâm thấu trái tim ngài. Về chính nhóm gia đình này, Thánh Gioan nói về họ rằng: “ngay anh em Người cũng không tin Người” (Ga 7:5).

Tuy nhiên, sau biến cố Thăng Thiên, Đức Maria và anh em của Chúa Giêsu sẽ tụ họp với các tông đồ với cùng một đức tin chung vào Chúa Kitô phục sinh (Cv 1:14). Các vị trở thành anh chị em của Người nhờ đức tin và do đó có trong số những người đầu hết thuộc đoàn lũ anh chị em mà Chúa Giêsu đã thu phục được bằng mầu nhiệm vượt qua của Người.

Hành trình đức tin của Đức Maria và con đường của anh chị em Chúa Giêsu tiến tới hồi tâm là gương mẫu cho mọi tín hữu. Những người sau được chứng tỏ rằng niềm gắn bó của họ với Chúa Kitô không thể nào có được nếu không có một sự nát lòng nào đó ở ngay tâm điểm cuộc sống họ, cho tới lúc họ có khả năng tuyên xưng trong sự thật trọn vẹn rằng con người Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa.

Đức Maria, người hết sức gần gũi với con người Giêsu, trong tư cách làm mẹ, đã phải trải nghiệm cuộc thống khổ và cái chết của Con Trai mình, ngõ hầu trở thành một môn đệ trong giáo hội. Qua đó, ngài cảnh báo mọi Kitô hữu rằng họ không thể bỏ qua thánh giá và phục sinh mà vào được hợp đoàn của Chúa họ.


Chú thích
(6) Xin trích dẫn ở đây Cv 1:14, đây là đoạn duy nhất của Sách này có nhắc tới Đức Maria, dù khung cảnh này, đúng ra, liên quan tới giáo hội, và thuộc điều thứ ba của Kinh Tin Kính.
(7) Thánh Mátthêu trích dẫn Is 7:14 từ bản Bẩy Mươi, là bản dịch chữ almah của Hípri là “trinh nữ”.
(8) Nền văn chương ngoài Sách Thánh có một tác phẩm giúp ta có thể nối kết giữa các truyền thống Do Thái và việc sinh hạ Chúa Giêsu mà vẫn còn đồng trinh. Cuốn (Khải Huyền) Enoch (Bằng Tiếng Slav) thuật lại việc Spanim, thân mẫu Menkixêđê, thụ thai mà không có sự can thiệp của đàn ông (2Enoch 71); xem bản văn của J.H. Charlesworth (chủ biên), The Old Testament Pseude-pigrapha 2 (New York: Doubleday, 1983) 204.
(9) Đức Maria được kecharitômenê, “được đổ ơn thánh” (filled with grace) chứ không phải “đầy ơn thánh” (full of grace), là đặc ân của một mình Ngôi Lời nhập thể, Đấng “đầy ơn thánh và sự thật” (plêrês charitos kai alêtheias, Ga 1:14).
(10) Cuộc tranh luận tín lý về các anh chị em của Chúa Giêsu sẽ được bàn ở chương 3.
(11) Động từ “giữ” (têreô) trong Lc 2:51 cũng là một với động từ trong 2:19, nhưng tiền từ có khác (diatêreô thay vì syntêreô).
 

Sonntag, Mai 27, 2012

Một tầm nhìn đại kết về vai trò của Đức Maria trong kế hoạch Thiên Chúa và trong hiệp thông các thánh ( 6)

Vũ Văn An5/26/2012

Chương 2: Chứng cớ Thánh Kinh và Việc Tuyên Xưng Đức Tin

Ba điều trong Kinh Tin Kính (1) sẽ cho ta những nét chính để ta suy tư về Đức Maria. Dĩ nhiên, ta không nên quên rằng các kinh tin kính trước hết và trên hết nhằm nói về Thiên Chúa Ba Ngôi và sự biểu hiện của Ba Ngôi trong kế hoạch cứu rỗi, là kế hoạch có cao điểm trong biến cố Chúa Giêsu Kitô. Hơn nữa, chúng ta không có ý định bình luận về mọi điều trong kinh tin kính. Ta chỉ muốn nắm được chỗ đứng thích đáng của Đức Maria trong một toàn bộ lớn hơn chính ngài và trong việc phục vụ mà ngài đã được đặt vào. Không bao giờ ta nên xem sét ngài một cách biệt lập.

Điều thứ nhất tuyên xưng Thiên Chúa là Cha toàn năng và là Đấng tạo thành mọi sự. Đức Maria là một trong các tạo vật của Người.

Điều thứ hai dành cho cuộc hành trình nhân bản của Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã đến “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”. Điều này nhắc ta nhớ Đức Maria là mẹ của Người.

Điều thứ ba nói tới Chúa Thánh Thần và giáo hội được Người thánh hóa. Đức Maria là chi thể của giáo hội này và thuộc hiệp thông các thánh.

I. Điều thứ nhất: Đức Maria, tạo vật, phụ nữ, và nữ tử Israel

Trong ước muốn làm nổi nhân tính của Đức Maria, ta sẽ rút ra từ Thánh Kinh mọi điều có thể rọi sáng căn gốc nhân bản, văn hóa và tôn giáo từng làm cho Đức Maria thành “người phụ nữ của thế giới chúng ta”, thành “nữ tử Israel”, thành “người phối ngẫu” và thành “một bà mẹ”.

1. Một người phụ nữ của thế giới chúng ta

Điều thứ nhất của kinh tin kính tuyên xưng Thiên Chúa là “Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, mọi vật hữu hình và vô hình”. Về phần mình, Đức Maria hoàn toàn là một thành phần trong thế giới tạo dựng này. Không thể biến ngài thành như các nữ thần được các tôn giáo cổ xưa thờ kính. Ngài không ở ngoài và ở trên nhân loại, nhưng hoàn toàn thuộc về nhân loại mà Thiên Chúa muốn dùng làm triều thiên cho tạo dựng của Người.

Trước nhất, người ta phải coi Đức Maria là một phụ nữ, nhưng không phải là một phụ nữ tách biệt khỏi các con người nhân bản khác cũng không phải là mẫu mực của một tùng phục thụ động mà nhiều phụ nữ khác từng tiếp nhận trong tương quan với đàn ông, hoặc là một biểu tượng cho nữ tính lý tưởng hàm nghĩa một khinh bỉ tính dục và sinh sản nhục thể nào đó. Đó là những suy nghĩ lệch lạc do tư tưởng duy nữ ngày nay chính xác kể ra, nhưng thường lại là những đặc tính người ta vẽ ra cho Đức Maria suốt nhiều thế kỷ qua. Việc phát triển của nghệ thuật cận đại cho thấy trong khi các hoạ sĩ như Georges de la Tour tuyệt diệu nắm bắt được nội tâm tính trầm lặng của Đức Maria, đấng lúc đó được coi như hình ảnh “thăng hoa” của phụ nữ, các họa sĩ khác, trái lại, đã “lý tưởng hóa” Đức Maria, biến ngài liều mình trở thành một thứ phóng chiếu của ước muốn tưởng tượng hay biểu thức của một lệch lạc ngẫu thần (2). Ngày nay ta hiểu rõ hơn rằng những lối mô tả ấy hết sức hàm hồ và đi ngược lại chứng tá nguyên thủy của Tin Mừng về người mẹ của Chúa Giêsu. Thực ra, ngài là một phụ nữ giữa các phụ nữ khác, một phụ nữ của thế giới chúng ta, một phụ nữ, giống các phụ nữ khác, từng trải nghiệm hai bậc sống làm vợ và làm mẹ (3).

Lịch sử cũng bắt ta phải thừa nhận sự kiện này là, bất kể các lạm dụng nơi một kiểu thánh mẫu học nào đó, các suy niệm về Đức Maria vẫn đã từng đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về phụ nữ và các vai trò của họ trong xã hội. Một cách đặc biệt, Đức Maria là người phụ nữ được nhiều người nghèo khó chạy tới, tìm kiếm nơi ngài sức mạnh và niềm phấn khích. Họ ý thức được sự gần gũi nhân bản và mẫu thân của ngài đối với họ; họ tự phát nhận ra khuôn mặt dịu dàng và cảm thương; họ nhớ đến ngài giữa niềm vui và giữa niềm đau của cuộc đời. Ngày nay cũng như trong quá khứ, nhiều người thấy nơi mẹ Chúa Giêsu một người phụ nữ vốn là “một với mình”, một tạo vật của Thiên Chúa, thực sự thuộc về “những người nghèo của Israel”, mà khuôn mặt nhân bản thì tiếp tục rạng rỡ chiếu soi đức tin và niềm hy vọng của kẻ khiêm hạ.

2. Nữ tử Israel

Sự kiện Đức Maria là con người nhân bản có nghĩa ngài thuộc về một dân tộc đặc thù: đó là dân Do Thái. Vì là phụ nữ, ngài không có một vị thế nào đặc biệt trong sinh hoạt xã hội và tôn của dân tộc ấy. Không có cách chi so sánh ngài với Miriam, chị Môsê (Ds 26:59), người từng đóng vai trò quan trọng trong hàng lãnh đạo của dân tộc Do Thái (Xh 15:20; Mk 6:4); cũng không thể so sánh ngài với các nữ tiên tri của Cựu Ước như Đơvôra thời Thủ Lãnh (Tl 4-5) hay các nữ anh hùng như Giuđitha và Nữ Hoàng Étte, người từng giúp làm cho việc giải phóng dân mình thành khả hữu và do đó là khí cụ cho công lý Thiên Chúa. Đức Maria không đóng vai trò đặc biệt nào giữa dân tộc ngài. Ngài là người phụ nữ tầm thường, và tên của ngài thông thường đến nỗi các phụ nữ đồng tên khác trong Tin Mừng chỉ được phân biệt bằng họ hàng hay quê quán (em Martha; vợ Clopas; Maria Magdala, v.v…) Há lối thuật truyện thản nhiên của Tin Mừng, không vụ xúc cảm hay tưởng tượng, đã không cho thấy tư thế tầm thường của người phụ nữ này hay sao, người phụ nữ mà Charles Péguy từng mô tả là “người đàn bà Do Thái nghèo của Giuđêa” và là “tạo vật khiêm hạ hơn hết”?

Chính trong tư thế một người phụ nữ tầm thường giữa dân mình, Đức Maria đã trải nghiệm cả đức đồng trinh lẫn chức phận làm mẹ của mình. Cựu Ước, trước đó, từng mô tả sự đồng trinh của Rêbêca: “cô gái là … một trinh nữ, người mà chưa người đàn ông nào biết” (St 24:16). Rồi Lề Luật buộc rằng vị thượng tế phải cưới một trinh nữ (Lv 21:13). Hạn từ “trinh nữ” cũng được dùng để mô tả dân Israel (“con gái đồng trinh Xion”: 2 V 19:21). Nhưng thực ra, hạn từ này được sử dụng một cách khá lưỡng nghĩa: trinh nữ là người có thể lấy chồng, nhưng cô cũng có nguy cơ bị mắng nhiếc hay rủa xả nếu, sau khi lấy chồng, cô không thể truyền sinh. Vì trong truyền thống Thánh Kinh và Do Thái, sự đồng trinh không phải tự nó là một cùng đích. Chính việc nhiều con mới được coi là phúc đức, như ca khúc mà Anna hát sau khi sinh con trai Samuen (1Sm 2:1-10). Và trong khi “nữ tử Xion”, nghĩa là dân Giêrusalem hay dân Giuđêa, cả ở đó lẫn ở nơi lưu đày, được ví như trinh nữ, thì ơn gọi của họ lại là trở thành phối ngẫu của Chúa và sinh con cái: “Hãy hát lên, hỡi người son sẻ không con, hãy bật tiếng reo hò ca hát” (Is 54: 1). Như thế, khi Đức Maria trở thành người mẹ, ngài đứng vào hàng ngũ thật dài những người phụ nữ của Israel. Ngài trải nghiệm việc sinh con, điều hẳn là triều thiên cho đời mọi người phụ nữ và đóng góp vào việc kéo dài mãi mãi dân Thiên Chúa chọn.

Không những mọi người đàn bà Do Thái đều mong muốn tránh cảnh son sẻ; một số họ còn hy vọng hạ sinh Đấng Mêxia (4). Không có lý do gì khiến ta không nghĩ rằng Đức Maria cũng ôm ấp cùng một hoài mong đó, như các phụ nữ khác: “Tại sao lại giả thiết rằng Đức Maria không trải nghiệm điều đó? Như thế, khi thiên thần báo tin cho ngài, ngài lo sợ, hay chỉ ngạc nhiên, như thể một ý nghĩ như thế chưa bao giời xẩy tới với ngài? Không! Thực ra, niềm vui của ngài lớn đến độ ngài không phản đối chi, như với cha, với chồng hay với danh dự bị tổn thương của mình. Những ý nghĩ ấy tan biến hết khi hồng phúc cao cả này được đề nghị với ngài. Phúc lạ hơn mọi phụ nữ! Phúc lạ thực sự!” (5).

Là nữ tử Israel, Đức Maria nhận làm của mình lời cầu nguyện của các phụ nữ thuộc dân của ngài (Lc 1:46-55): các phụ nữ như Miriam, chị Môsê (Xh 15:20 tt) hay Anna, mẹ Samuen (1Sm 2). Đàng khác, ngài cũng tuân phục các luật lệ liên quan tới các giai đoạn khác nhau của đời người phụ nữ. Ngài đã kết hôn hợp pháp với Thánh Giuse, dù không sống với thánh nhân (Mt 1:18), theo đòi hỏi của luật phải đồng trinh trước hôn lễ. Khi đã hạ sinh Chúa Giêsu, cùng với Thánh Giuse, ngài đã tuân thủ các nghi thức theo luật Do Thái: cắt da qui đầu cho con trai, thanh tẩy bà mẹ, dâng con trai đầu lòng, dâng cặp chim cu gáy hay chim bồ câu (Lc 2:21-24; xem Xh 13:2 và Lv 12:1-8). Điều đáng lưu ý là trong khi Luật Do Thái nói tới việc chuộc đứa con trai đầu lòng (Xh 13:13), thì thánh sử Luca lại nói tới việc “dâng con cho Chúa”, chứ không chuộc con (Lc 2:22); vì Chúa Giêsu đâu có cần được chuộc, ngài luôn luôn là tài sản của Thiên Chúa (giống các thầy Lêvi, theo Ds 3:40 tt); vả lại chính Người sẽ cứu chuộc muôn dân. Tuy thế, sự kiện vẫn là Chúa Kitô được một phụ nữ Do Thái sinh ra (Gl 4:4) và là thành viên của dân tộc được Thiên Chúa “nhận làm con nuôi, được người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng vụ và các lời hứa… và các tổ phụ” (Rm 9:4-5). Đức Maria ở trong dân Israel, và Israel ở trong ngài; do sự kiện ấy, giao ước mà Thiên Chúa ký với dân của Người không bị rút lại, trái lại còn được nên trọn một cách mới mẻ bằng việc xuống thế của “Emmanuen” tại đất Giuđêa.

3. Vợ và mẹ

Về Đức Maria, có lời chép rằng ngài “được đính hôn với ông Giuse” (Mt 1:18). Câu này có ý nói tới việc đính hôn mà theo truyền thống Do Thái phải có trước hôn lễ thực sự. Sau đó, khi Đức Maria mang thai một cách lạ lùng, Thánh Giuse đã thực hiện hành động theo nghi lễ khiến Đức Maria thành vợ mình: Thánh nhân “tiếp nhận ngài làm vợ mình” (Mt 1:24). Các tin mừng về thời thơ ấu nói tới cặp vợ chồng này một số lần: Thánh Giuse lên đường “cùng Maria vợ mình” về quê đăng ký theo lệnh hoàng đế (xem Luca 2:5); các mục đồng thấy hai vị cùng với con trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ tại Bêlem (Lc 2:16). Theo Tin Mừng Mátthêu, Thánh Giuse “đem con trẻ và mẹ con trẻ” mà trốn qua Ai Cập (Mt 2:14). Theo Tin Mừng Luca, hai vợ chồng tới Giêrusalem để dâng con trẻ Giêsu cho Thiên Chúa (Lc 2:22) và trở lại đó hàng năm để dự Lễ Vượt Qua (Lc 2:41); rồi khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, hai vợ chồng lại chia sẻ chung một nỗi âu lo khi nhận ra đứa con của mình thất lạc (Lc 2:44 tt).

Rồi một ngày kia, có người đàn bà vô danh trong đám đông cất cao tiếng và nói về Chúa Giêsu rằng: “Phúc thay dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!” (Lc 11:27). Dù câu của Người Con có ý lôi kéo người ta chú ý tới nguồn gốc chân thực của mọi phúc đức (“Đúng hơn, phúc cho những ai nghe lời Thiên Chúa và vâng theo nó”, Lc 11:28), thì sự kiện vẫn là Đức Maria có chung một thân phận với tất cả những ai được trải nghiệm chức làm mẹ. Ngài tràn ngập niềm vui lúc được báo tin con mình sẽ đến; ngài chờ mong con mình trong việc kiên nhẫn chấp nhận cuộc sống hàng ngày; ngài trải nghiệm niềm vui của người mẹ khi lần đầu được chiêm ngắm dung nhan đứa con mới sinh. Ngài quen thuộc với trạng huống mà sau này, một ngày kia, có lần Chúa Giêsu đã mô tả với môn đệ: “Khi người đàn bà lâm bồn, bà hết sức đau đớn, vì giờ của bà đã đến. Nhưng khi đứa con sinh ra, bà không còn nhớ gì tới các khắc khoải ấy nữa bởi vì niềm vui đã đem vào đời một con người nhân bản” (Ga 16:21).

Bắt đầu từ ngày Con Trẻ sinh ra và suốt các năm tháng kế tiếp tại Nadarét, đối với Chúa Giêsu, Đức Maria là điều mà mọi bà mẹ Do Thái giả thiết phải là đối với đứa con của mình. Đúng thế, vì theo Tin Mừng Mátthêu, chính Thánh Giuse, chồng ngài, đã đặt tên cho Con Trẻ và cũng chính thánh nhân dẫn khởi Con Trẻ Giêsu vào việc đọc Tôra, dạy Con Trẻ nghề làm ăn, và dần dần chuẩn bị cho Con Trẻ bước vào cuộc sống trưởng thành. Nhưng trong công trình ấy, Đức Maria góp phần quan trọng bằng cách giúp Con Trẻ Giêsu khám phá ra các thực tại đơn sơ của cuộc sống gia đình và cùng năm tháng qua đi, ghi nhớ sự tiến triển của Con Trẻ “mỗi ngày một tăng trưởng và trở nên mạnh mẽ hơn” (Lc 2:40). Trong thời gian ở Nadarét, chắc chắn ngài nghĩ tới tương lai và, giống mọi cha mẹ khác, thảo luận với Thánh Giuse về viễn ảnh trưởng thành của Con Trai.

Các phúc âm gia nói tới niềm vui của Đức Maria nhưng cũng không quên đề cập tới các thử thách và thống khổ của ngài. Khi nói đến việc ngài mang thai trước khi chung sống với Thánh Giuse, Thánh Mátthêu minh xác rằng ngài rất có thể bị ngờ vực thất trung (xem Mt 1:18-25). Sau khi Chúa Giêsu sinh ra, Thánh Mátthêu nói tới bạo hành được tung ra chống lại Con Trẻ và gia đình Con Trẻ (xem Mt 2).

Về phần mình, Thánh Luca nhắc nhớ và nhấn mạnh tới thân phận thấp hèn và bất định của Chúa Giêsu lúc mới sinh: không có chỗ trọ, sinh ra trong chuồng bò lừa (Lc 2:7), lời tiên đoán của Simêong: “Một lưỡi gươm cũng sẽ đâm thâu lòng bà” (Lc 2:35), và sau đó, lúc đi hành hương hàng năm lên Giêrusalem, nỗi lắng lo xao xuyến của một người mẹ chắc mẩm rằng con mình bị lạc, nên khi tìm thấy, đã trách con: “Sao con lại sử với ba má như thế?” (Lc 2:48).

Dù không một phúc âm gia nào nói rằng Đức Maria đau lòng khi thấy Con Trai rời khỏi nhà, nhưng ba vị có tường trình rằng ngài và thân nhân có tìm cách “gặp” Chúa Giêsu. Thánh Máccô nói đến nỗi âu lo xao xuyến của một người mẹ khi thấy mình và gia đình mình bị hạ nhục bởi những người hoài nghi và giận dữ nhận xét về Chúa (xem Mc 3:22; 6:1-6). Sau cùng, theo truyền thống nhất trí của các Tin Mừng, Đức Maria trải nghiệm thử thách kinh khủng nhất mà một bà mẹ có thể chịu đựng, đó là đứng nhìn một cách vô vọng nỗi đau khôn tả và cái chết nhục nhã của Con Trai mình.

Như thế, ta sẽ không trọng kính Đức Maria nếu ta không thấy ở nơi ngài một tạo vật chân thực của Thiên Chúa, một nữ tử của Israel, người hoàn toàn chia sẻ lịch sử của dân ngài, và một người mẹ biết chia sẻ các hân hoan và sầu buồn của chức phận làm mẹ, và cảm nghiệm tất cả những điều ấy trong cuộc hiện sinh hàng ngày cũng như trong các hoàn cảnh đặc biệt của cuộc sống. Chính trong và qua hành trình nhân bản của mình, người phụ nữ này đã mở lòng mình đón nhận lời Thiên Chúa. Cũng chính trên cùng một hành trình này, ngài đã được mời gọi tin và học hỏi trở thành môn đệ từng bước, lại từng bước, có khi trong ánh sáng, có khi trong bóng đêm, bắt đầu từ tiếng xin vâng lúc truyền tin và giọng hân hoan của Kinh Ngợi Khen, và kết thúc trong đau đớn lặng câm của đồi Canvariô.

Đó chính là nét nhân bản sâu sắc của Đức Maria. Trong khi ca ngợi Đấng Tối Cao vì “Người đã đoái nhìn phận hèn tôi tớ” (Lc 1:48), Kinh Ngợi Khen của ngài không hề vinh danh mình mà là ngợi ca Đức Chúa vì những kỳ công Người thực hiện. Tuy thế, nếu Đức Maria, một phụ nữ trong mọi phụ nữ, có bao giờ chiếm một vị trí độc đáo trong tạo dựng của Thiên Chúa, thì vị trí ấy là do sự kiện này: Thiên Chúa chọn ngài làm mẹ của Con Một Người và ngài đã xin vâng một cách không dè dặt trước sự chọn lựa ấy.

Như thế, ta trọng kính Đức Maria khi ta hướng tới mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, Đấng “đã sinh ra bởi Trinh Nữ Maria và đã làm người”.
Chú thích

(1) Ở đây, “kinh tin kính” chỉ cả Kinh Tin Kính Các Tông Đồ và Kinh Tin Kính Nixêa và Constantinốp.
(2) Theo quan điểm của Freud, một số ước (thèm) muốn luôn nằm ở gốc rễ cả việc “thăng hoa hóa” lẫn việc “lý tưởng hóa”. Tuy nhiên, trong thăng hoa hóa, thèm muốn chấp nhận việc mất đối tượng tức khắc của nó, và bằng lòng chuyển qua một đối tượng khác; nó phóng chiếu lên đối tượng sau các yếu tố của khoái lạc hay tốt đẹp từng được gán cho đối tượng khởi thủy. Trái lại, trong lý tưởng hóa, thèm muốn không tách rời khỏi đối tượng tức khắc của nó; chủ thể không chấp nhận việc mất mát này, và được thúc đẩy bởi ý muốn kiểm soát, đã chế ra một đối tượng phù hợp với các đặc điểm của đối tượng khởi thủy. Xem S. Nobécourt-Granier, “Các phụ nữ không trở nên thánh hay phù thủy trong đức tin vào Thiên Chúa” (Ni saintes, ni sorcières, les femmes deviennent dans la foi en Dieu), đăng trong Incroyance et Foi, số 39 (Mùa Thu, 1986) 19-29; cùng tác giả, “Freud và sự đồng trinh” (Freud et la virginité) trong tuyển tập La première fois (Paris: Ramsay, 1981) 401-43; Dominique Stein, “Các khuôn mạo Đức Maria và các lời khấn của vô thức” (Figures de Marie et voeux de l’inconscient” đăng trong Femmes et hommes dans l’Église (Bulletin international) số 7 (tháng 12, 1981).
(3) Xem F. Quéré, Marie (Paris: Desclée De Brouwer, 1996) 55-58.
(4) Ở đây nên nhớ rằng trong Cựu Ước, Sách Các Vua rất thường hay nhắc tới bà mẹ các vua của triều đại Đavít (xem 1V 2:19; 11:26; 14:21; v.v…)
(5) F. Quéré, Jésus enfant (Paris: Desclée, 1992)130.