Ðức Mẹ Maria,
Niềm Ơn Phúc và Hy Vọng trong Chúa Kitô
Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Tiền ngôn
Trong cuộc hành trình tiến đến sự hiệp nhất toàn diện, giáo hội Công giáo và các giáo hội liên hiệp Anh giáo, từ nhiều năm qua, đã chăm chú nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến đức tin mà chúng tôi cùng chia sẻ, cũng như đến phương cách chúng tôi diễn đạt những vấn đề này trong đời sống và trong phụng vụ của hai giáo hội tin kính này. Chúng tôi đệ đạt những phát biểu đã được đôi bên đồng ý lên Toà Thánh và lên liên hiệp Anh giáo, để các vị có thẩm quyền bình luận và làm cho sáng tỏ vấn đề nếu cần, và chấp nhận như một đồng thuận của đức tin Anh giáo và Công giáo Roma.
Ðể đạt đến khuôn mẫu cho quyết nghị chung đó, chúng tôi dựa trên Thánh Kinh và trên truyền thống chung đã có từ trước thời Cải cách và Canh Tân. Như các tài liệu trước của Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma, với tài liệu này, chúng tôi sẽ tiếp tục cố gắng dùng ngôn từ chung, và thăng hoa các dị biệt trong quá khứ. Ðồng thời, chúng tôi phải đương đầu với các định nghĩa cơ bản tín điều tạo thành nền tảng và quen thuộc cho đức tin của người Công giáo Roma, nhưng lại rất lạ với đức tin Anh giáo. Các thành viên của Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma đã hết sức cố gắng tìm cách tháp nhập cách này hay cách khác một thần học cụ thể, và cùng nghiên cứu khung cảnh lịch sử mà nơi đó các tín điều đã phát triển. Ðể được như vậy, chúng tôi đã phải học hỏi để tiếp nhận những canh tân truyền thống riêng của mỗi tôn giáo, được soi sáng và đào sâu qua niềm hiểu biết và tri ân các truyền thống khác.
Quyết định chung liên quan đến đức Trinh Nữ Maria như tiến trình của niềm ân sủng và hy vọng là một suy tư mãnh liệt, khi cố gắng tìm kiếm những gì chúng tôi có chung, và cử hành những khía cạnh quan trọng trong gia tài chung của chúng tôi. Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, đứng trước chúng ta như một biểu tượng của sự vâng phục trung tín. Lời Mẹ nói "Xin Vâng như lời Ngài truyền" là câu trả lời đầy ân sủng mà mỗi người chúng ta cần đáp ứng với Chúa qua tư cách riêng hoặc tư cách chung như giáo hội là thân mình Ðức Kitô. Như hình ảnh của giáo hội, đôi tay của Mẹ đã đưa lên cao cầu nguyện và chúc tụng. Ðôi tay của Mẹ mở rộng như lãnh nhận và chào đón ơn Chúa Thánh Linh, khi chúng ta cùng nên một với Mẹ Maria lúc Mẹ chúc tụng Chúa. Qua Tin Mừng thánh Lu-ca, Mẹ đã hát bài ca: "Quả thật, từ nay muôn đời sẽ gọi tôi có phúc."
Cả hai truyền thống của chúng tôi đã chia sẻ nhiều lễ hội liên hệ đến Mẹ Maria. Từ những kinh nghiệm đó, chúng tôi thấy rằng, chính trong lãnh vực thờ phượng, mà chúng tôi nhận ra sự đồng thuận sâu thẳm của mình khi chúng tôi tạ ơn Ðức Chúa Trời đã ban Mẹ của Thiên Chúa cho chúng ta. Mẹ là đấng hiệp nhất với chúng tôi trong cộng đồng của yêu thương và của cầu nguyện, khi chúng tôi cùng hiệp thông với các thánh.
Tổng giám mục Alexander J. Brunett, Công giáo, đồng chủ tịch
Tổng giám mục Peter F. Carnley, Anh giáo, đồng chủ tịch
Tại Seattle, Lễ Dâng con trong đền thờ, Ngày 2 tháng 2 năm 2004
Hoàn cảnh bản văn
Tài liệu này được ấn hành do kết quả công việc của Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma. Ðây là bản tuyên ngôn chung. Các vị hữu trách khi bổ nhiệm uỷ ban, đã cho phép tài liệu xuất bản, mục đích sao cho nhiều nơi rộng rãi thảo luận. Giáo hội Công giáo và liên hiệp Anh giáo không dùng quyền bính tuyên bố phải tuân phục văn kiện này. Hai giáo hội sẽ học hỏi và lượng giá tài liệu theo đúng thời gian cần thiết.
Các trích dẫn từ Thánh Kinh do từ bản "New Resived Standard Version." Một vài trường hợp, uỷ ban dùng chính bản dịch của mình.
Dẫn nhập.
1. Khi tôn vinh Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, các thế hệ Anh giáo và Công giáo Roma cùng vang dội lên lời chào mừng của thánh I-sa-ve: "Em có phúc hơn các phụ nữ và Giêsu, quả phúc của lòng em đầy phúc lộc" (Lu-ca 1:42) Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma giờ đây mong ước đặt lời tuyên bố chung này về Mẹ Maria trong đời sống và đức tin của giáo hội với niềm hy vọng, tài liệu này diễn đạt đức tin chung của chúng ta về Ðấng, mà mọi tín hữu đều biết đã gần với Chúa Giêsu Kitô cứu thế, Chúa của chúng ta hơn cả. Chúng tôi làm việc này theo lời yêu cầu của hai giáo hội để trả lời các câu hỏi đã được đưa ra.
Một uỷ ban đặc biệt gồm các giám mục Anh giáo và Công giáo Roma đã nhóm họp dưới sự chủ tọa của tổng giám mục Canterbury, tiến sĩ George Carey, và Hồng y Edward I. Cassidy, chủ tịch Hội đồng giáo hoàng đặc trách hiệp nhất Kitô giáo. Uỷ ban đã họp tại Mississauga, Canada, vào năm 2000, nhằm mục đích yêu cầu Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma "học hỏi về Mẹ Maria trong đời sống và đức tin giáo hội." Lời yêu cầu này nhắc nhớ lại nhận xét của Bản báo cáo Malta (1986) rằng "những khác biệt thực sự hoặc hình như là khác biệt giữa chúng ta xuất hiện trong các vấn đề liên quan đến các tín điều về Ðức Maria, được tuyên tín vào năm 1854 và 1950 (1). Gần đây hơn, trong văn kiện Ut Unum Sint (1995) đức giáo hoàng Gioan Phaolo II xác định một lãnh vực mà mọi truyền thống Kitô giáo cần học hỏi thêm, trước khi đi đến sự đồng thuận chung về đức tin, đó là "Ðức trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và biểu tượng của giáo hội, Mẹ tinh thần, đấng cầu bầu cho các môn đệ Chúa Kitô và cho toàn thể nhân loại" (số 79)
2. Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma đã đề cập đến vấn đề này, tức là vấn đề "Ðức trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và biểu tượng của giáo hội, Mẹ tinh thần, đấng cầu bầu cho các môn đệ Chúa Kitô và cho toàn thể nhân loại" một lần. Văn kiện "Quà Tặng và Quyền bính trong giáo hội II" (1981) đã ghi nhận trình độ đồng ý như sau:
"Chúng tôi đồng ý xác quyết rằng chỉ có một đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người, đó là đức Giêsu Kitô. Chúng tôi phản bác bất cứ sự giải thích nào về vai trò của Ðức Maria, nếu những giải thích đó ngược với điều xác quyết trên. Chúng tôi đồng ý khi công nhận sự hiểu biết Kitô giáo về Mẹ Maria liên hệ chặt chẽ không thể rời khỏi các tín điều về Chúa Kitô và về giáo hội. Chúng tôi đồng ý khi công nhận ân sủng và và ơn gọi độc nhất của Mẹ Maria, Ðấng cưu mang Thiên Chúa (Theotokos) (2), đang khi cử hành các lễ hội về Mẹ theo sự tôn vinh dành cho Mẹ khi hiệp thông với các thánh. Chúng tôi đồng ý rằng Mẹ đã được chuẩn bị do ân sủng thần thiêng làm Mẹ đấng cứu chuộc của chúng ta. Chính nhờ Người mà chính Mẹ được cứu chuộc và được được vinh quang. Chúng tôi còn đồng ý hơn nữa khi công nhận Mẹ Maria là biểu tượng của sự thánh thiện, vâng phục và đức tin cho mọi Kitô hữu. Chúng tôi chấp nhận rằng cũng có thể nhìn đến Mẹ như khuôn mẫu sứ ngôn của giáo hội Chúa trước cũng như sau khi Chúa nhập thể (số 30)
Tuy nhiên, cùng bản văn đó đã đưa ra những khác biệt:
''Các tín điều về Ðức Mẹ vô nhiễm nguyên tội và linh hồn và xác lên trời đã đề ra một số vấn nạn cho những người theo Anh giáo. Họ nghĩ rằng các định nghĩa ngắn gọn trên, coi như là tín điều, đã không đủ chứng cớ trong Thánh Kinh. Với nhiều tín hữu Anh giáo, thì các lời huấn giáo dựa trên năng quyền của đức giám mục thành Roma, khi tuyên bố ngoài Công đồng, tức là những tín điều thuộc về Mẹ Maria, không coi là tín điều buộc mọi người tín hữu phải tin. Người Anh giáo cũng đặt câu hỏi rằng, trong tương lai, qua các sự kết hợp giữa hai tôn giáo, phải chăng họ cũng phải tuân theo các lời tuyên tín như vậy? (Số 30)
Những vấn đề nêu trên đã được đặc biệt ghi nhận trong bản văn trả lời chính thức của Toà Thánh cho ''Bản Tường Trình Cuối'' (năm 1991, số 13). Sau khi suy xét các niềm tin chung và các vấn nạn kể trên như điểm khởi hành cho các suy tư, giờ đây chúng tôi có thể khẳng quyết hơn nữa các đồng ý chung quan trọng về vị thế của Mẹ Maria trong đời sống và trong đức tin của giáo hội.
3. Văn kiện chung đại kết này đưa ra một thông cáo đầy đủ hơn về niềm tin của chúng tôi liên quan đến đức Trinh nữ Maria, đồng thời cung cấp nguồn mạch văn bản cho những tri ân chung khi nghiên cứu các tín điều thuộc về Mẹ Maria. Chúng tôi cũng thảo luận các khác biệt khi thực hành, bao gồm cả lời khẩn cầu minh nhiên dành cho Mẹ Maria. Bản văn kiện chung đại kết này đã xử dụng tài liệu văn bản nghiên cứu trước. Ðó là tài liệu ''Quà tặng và Quyền Bính'' (Gift and authority), xuất bản năm 1999. Từ đó, chúng tôi kết luận rằng khi giáo hội nhận và nhìn nhận điều mà giáo hội coi như sự diễn đạt chân chính của truyền thống đã trao ban cho các tông đồ, thì sự nhận biết đó là một tác động mang cả hai tính cách trung thành và tự do.
Tự do trả lời qua những phương cách sống động khi đối diện với các thách đố mới, chính là điều giúp giáo hội trung thành với truyền thống mà giáo hội đã sống. Ðôi lúc, một vài phần trong tông truyền có thể bị quên lãng, bị lờ đi hoặc bị lạm dụng. Trong những hoàn cảnh này, sự trở về nguồn Thánh Kinh và truyền thống dẫn đến sự mặc khải của Thiên Chúa trong Ðức Kitô: Chúng tôi gọi tiến trình này là tái đón nhận (Xc. "Quà tặng và Quyền Bính", 24-25). Tiến trình trong các cuộc đối thoại và tìm hiểu đại kết gợi ý rằng bây giờ là lúc chúng tôi có cơ hội để cùng tái đón nhận truyền thống mới về vị thế của Mẹ Maria trong ơn mặc khải của Thiên Chúa.
4. Ngay từ ban đầu, Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma đã cố gắng tìm kiếm các luận cứ chống đối hoặc ủng hộ nhằm khám phá và mở mang một gia tài đức tin chung (Xc. '"Quà Tặng và Quyền Bính" I, 25). Tiếp theo bản ''Tuyên ngôn chung'' năm 1966 của đức giáo hoàng Phaolo VI và đức tổng giám mục thành Canterbury, tiến sĩ Michael Ramsey, chúng tôi tiếp tục ''đối thoại nghiêm chỉnh.. dựa trên Phúc âm và trên truyền thống cổ thời chung.'' Chúng tôi đã đặt câu hỏi là, đến mức nào thì tín điều và sự sùng kính Mẹ Maria thuộc về ''sự đón nhận'' hợp thức của tông truyền, theo như Thánh Kinh dậy bảo. Truyền thống này có tận trong tâm điểm ''nhiệm cuộc cứu độ'' Ba Ngôi. Tâm điểm này làm nền tảng cho đời sống và đức tin của giáo hội trong sự hiệp thông thánh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng tôi đi tìm hiểu nhân vị và vai trò của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ và trong đời sống giáo hội dưới ánh sáng soi dẫn của thần học ân sủng và hy vọng. Nền thần học này đâm rễ sâu trong các kinh nghiệm dài lâu của phụng vụ và sùng mộ Kitô giáo.
5. Ân sủng của Chúa mời gọi và giúp người đáp trả (Xc. ''Ơn cứu chuộc và Giáo hội'' - Salvation and the Church - 1987, số 9). Các đoạn phúc âm về truyền tin, khi sứ thần kêu mời Mẹ Maria biểu lộ ân sủng này. Sự nhập thể và các chi tiết liên hệ, gồm cả trình thuật thương khó, chết và phục sinh của Chúa Kitô, sự chào đời của giáo hội, đã đạt đến cao điểm qua lời "Xin Vâng" đầy tự do của Mẹ Maria -' 'xin thể hiện nơi tôi theo như lời Ngài truyền'' (Lu-ca 1:38). Chúng ta còn nhận ra trong biến cố nhập thể Chúa đã nói ''Xin Nhận'' (3) với toàn thể nhân loại.
Ðiều này nhắc nhở chúng ta một lần nữa lời của thánh tông đồ trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Corinthô 1: 18-20 (Xc. Quà Tặng và Quyền Bính, 8...). Tất cả những lời hứa của Chúa đã xuất hiện trong lời ''Xin Nhận'' của Con Chúa, Ðức Giêsu Kitô. Trong mạch văn Xin Vâng của Mẹ Maria, chúng ta trông thấy giây phút siêu vượt của người tín hữu nói lời Xin Vâng (Amen) khi đáp trả lại tiếng "Xin Nhận" của Chúa. Người môn đệ Kitô đáp trả bằng Xin Vâng trong lời kinh Amen (4). Họ biết rằng họ là con của cùng chung một cha trên trời, do cùng một Thánh Thần sinh ra, là anh chị em của Ðức Giêsu Kitô. Họ cùng hiệp thông một nguồn mạch tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ðức Maria cô đọng niềm hiệp thông đó trong đời sống Thiên Chúa. Câu trả lời của Mẹ không thiếu suy tư. Câu trả lời đã hoà lẫn giữa niềm vui và sầu muộn, dẫn đưa Mẹ đến tận chân thập giá của con mình. Khi các Kitô hữu hiệp ý cùng với Mẹ Maria trả lời Xin Vâng (Amen) với lời ''Xin Nhận'' của Thiên Chúa trong Ðức Kitô, họ đã chấp nhận trả lời cách vâng phục Lời Chúa là lời dẫn đưa đến đời sống cầu nguyện và phục vụ. Giống như Mẹ Maria, họ không chỉ tôn vinh Chúa bằng môi miệng: họ chấp nhận phục vụ công lý của Chúa bằng chính đời sống mình (Xc. Lu-ca 1: 46-55)
A. Mẹ Maria theo Thánh Kinh
6. Chúng tôi xác tín rằng Thánh Kinh, lời Chúa được viết ra (5) (tức là Thánh Kinh), là chứng nhân căn bản cho chương trình cứu chuộc của Chúa. Do đó, để hiểu về Mẹ Maria, cần nhìn đến Thánh Kinh. Quả thực, không thể trung thành với Thánh Kinh mà không nghiên cứu kỹ lưỡng Mẹ Maria. Tuy nhiên, chúng tôi nhìn nhận, trong một số thế kỷ, Anh giáo và Công giáo đã giải thích khác nhau. Khi cùng suy niệm đoạn Thánh Kinh liên quan đến Mẹ Maria, chúng tôi khám phá ra nhiều điểm hứng khởi trong cuộc đời của vị đại thánh này. Chúng tôi thấy mình đang suy niệm với lòng ngưỡng mộ và tri ân toàn thể tiến trình lịch sử cứu chuộc: sự tạo dựng, lựa chọn, nhập thể, thương khó và sống lại của Chúa Kitô, ân điển Chúa Thánh Thần trong giáo hội, và viễn kiến cuối cùng của dân Chúa hướng về cuộc sống đời đời trong sự tạo dựng mới.
7. Trong những đoạn kế tiếp, chúng tôi sẽ dùng Thánh Kinh rút ra truyền thống trọn vẹn của giáo hội, mà trong đó nhiều bài đọc khác nhau và phong phú đã được xử dụng. Trong tân ước, cựu ước thường được dùng để cắt nghĩa bóng (6). Các biến cố và hình ảnh mang ý nghĩa riêng nhắm đến Chúa Kitô. Các vị giáo phụ và các nhà giảng thuyết thời trung cổ đã khai triển rộng rãi phương cách này. Các vị thời Phục Hưng (7) khi nhấn mạnh đến nét trong sáng và vẹn toàn của Thánh Kinh, đã kêu gọi người nghe hãy trở về nguồn tâm điểm của Thánh Kinh. Các phương cách phê bình lịch sử cố gắng tìm ra ý nghĩa mà các tác giả Thánh Kinh muốn nhắm đến và nhìn nhận giá trị nguyên gốc văn bản. Mỗi phương pháp trên có giới hạn của mình, và dễ đưa đến sự quá trớn hoặc mất thăng bằng: nghĩa bóng có thể trở thành quá đáng, Phục hưng nhấn mạnh đến giảm trừ, còn phê bình lịch sử thì quá chú tâm vào lịch sử. Các phương cách nghiên cứu Thánh Kinh gần đây đã đưa ra một khoảng đo lường dành cho các bài đọc, nhất là những bài về mang tính cách trình thuật, hùng biện hoặc xã hội.
Trong bản thông cáo chung này, chúng tôi tìm kiếm giá trị của mỗi phương cách trên cũng như sửa sai và đóng góp vào việc xử dụng Thánh Kinh. Hơn nữa, chúng tôi nhìn nhận rằng, không có văn bản nào hoàn toàn trung lập, nghĩa là mỗi bản văn hình thành do mạch văn và do cảm nhận của người đọc. Văn bản của chúng tôi lấy ra theo mạch văn đối thoại giữa hai tôn giáo trong Ðức Kitô, nhắm đến sự hiệp thông theo như ý của Người. Do đó, đây là văn bản mang tính cách đại kết và giáo hội, đang khi chúng tôi cố gắng hiểu biết về Ðức Maria trong mạch văn tân ước như nguồn mạch trọn vẹn, và cũng dựa trên cựu ước cũng như ánh sáng truyền thống.
Chứng nhân Thánh Kinh: Một dự phóng của Ân Sủng và Hy vọng
8. Cựu ước làm chứng công trình tạo dựng nên người nam và người nữ theo hình ảnh của Chúa, làm chứng cho lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa với con người qua các liên hệ Giao ước. Ngay cả khi con người bất tuân, Chúa cũng không bỏ quên họ trong tội và trong quyền lực của sự chết. Lần này qua lần khác, Chúa mời gọi con người đến với giao ước ân sủng. Chúa thiết lập giao ước với ông No-e khi hứa rằng sẽ chẳng bao giờ "con người" bị lụt hồng thủy hủy hoại. Chúa thiết lập giao ước với Abraham và qua ông, mọi gia đình trên mặt đất sẽ được chúc phúc. Qua Mai-sen, Ngài thiết lập giao ước với dân Israel, nếu họ vâng lời Ngài, họ sẽ trở thành quốc gia thánh thiện và dân tộc tư tế.
Các ngôn sứ liên tục mời gọi dân chúng lìa bỏ sự bất tuân phục, trở về với Chúa nhân hậu của giao ước, lãnh nhận lời Chúa và để lời Chúa sinh nhiều hoa trái trong cuộc đời. Các ngài hướng về sự canh tân giao ước, trong đó bao gồm một sự vâng phục trọn vẹn và một sự hiến thân trọn vẹn: "Ðây là giao ước Ta sẽ thiết lập với nhà Israel sau những ngày này, Chúa nói: Ta sẽ đặt luật của Ta trong họ, và Ta sẽ viết luật trong tim họ. Ta sẽ là Chúa của họ, và họ sẽ là dân của Ta" (Jerêmia. 31: 33). Trong lời tiên tri của ngôn sứ Ezechiel, hy vọng này không chỉ mang ý nghĩa tẩy sạch và rửa sạch, nhưng còn là ơn Chúa Thánh Thần (Ezêchiel 36: 25-28)
9. Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài đã nhiều lần giống như mối tình giữa Chúa với Israel, người con gái trinh nữ Zion, hiền thê và mẹ: "Ta long trọng thề với bạn và ký kết giao ước với bạn, Chúa toàn năng phán, và bạn thuộc về Ta (Ezêchiel 16:8; Xc. Isaia. 51:4, Galat 4: 27). Ngay cả khi trừng phạt dân cứng lòng, Chúa vẫn luôn trung tín, hứa sẽ tái lập liên hệ giao ước và quy tụ dân bị tản mác lại (Hosea. 1-2; Jerêmia. 2: 2, 31: 3; Is. 62: 4-5). Hình ảnh ngày cưới cũng được dùng trong Tân ước để diễn tả liên hệ giữa Chúa Kitô với giáo hội (Êphêsô. 5: 21-33; Khải huyền 21: 9)
Song song với hình ảnh tiên tri về Israel như hiền thê của Chúa, văn chương Salomon (8) của cựu ước diễn đạt ơn Khôn ngoan thánh như nữ tì của Chúa (Cách ngôn. 8: 22..; Xc. Khôn ngoan 7: 22-26). Salomon đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự đáp trả và sinh hoạt tạo dựng. Trong tân ước, các lý do tiên tri và khôn ngoan này gồm chung thành một với nhau (Lu-ca: 11: 49) và hoàn tất khi Chúa đến.
10. Thánh Kinh cũng nói đến việc Chúa gọi riêng một số người như David, Elia, Giêremia và Isaia, nhờ đó có những người riêng biệt làm các công tác riêng biệt. Họ làm chứng cho ân điển của Thánh Thần hoặc sự hiện diện của Chúa, chu toàn ý định và chương trình của Chúa. Người ta cũng tìm thấy nhiều đoạn suy tư sâu thẳm về điều Chúa cho biết và mời gọi dành riêng cho một người nào đó từ thưở ban đầu của người này (Thánh vịnh 136: 13-16; Jer. 1:1-5).
Cảm giác thán phục về ân điển theo thời gian (prevenient grace) của Chúa đã biểu lộ cách tương tự như vậy, nhất là trong thư của thánh Phaolô khi ngài nói đến "những người được gọi theo chương trình của Chúa," khẳng định rằng những ai Chúa đã "biết từ trước, ngài cũng tiền định cho xứng hợp với hình ảnh người con của Ngài... Và những ai Ngài tiền định, Ngài đã kêu gọi; và những ai Ngài kêu gọi, Ngài cũng Công chính hóa; và những ai Ngài công chính hóa, Ngài đã tôn vinh họ (Roma. 8: 28-30; Xc. 2 Timothê 1: 9). Sự chuẩn bị của Chúa cho một nhiệm vụ sứ ngôn còn lộ rõ qua thí dụ cụ thể, là lời sứ thần nói với tiên tri Zacharia trước khi Gioan tiền hô sinh ra: "Trẻ sẽ tràn đầy ơn Thánh Thần ngay từ trong lòng Mẹ" (Luca 1: 15; Xc. Quan án 13:3-5)
11. Tiếp theo dự phóng của ân sủng Thiên Chúa và hy vọng con người đáp trả trọn vẹn lời mời gọi của Chúa như chúng ta đã trình bầy ở các chương trên, người Kitô hữu phải, hiệp ý với các tác giả viết tân ước, nhìn thấy cao điểm của dự phóng này trong sự tuân phục của Ðức Kitô. Trong mạch văn Kitô học, họ nhận ra một tiến trình tương tự trong nhân vật sẽ đón nhận Lời trong tim và trong thân xác của chị, được Thánh linh bao phủ và sinh ra con Thiên Chúa. Tân ước không chỉ nói đến tiến trình Chúa chuẩn bị cho Người Con giáng trần, mà còn nói đến Chúa tuyển chọn, mời gọi và thánh hóa một phụ nữ Do Thái theo cung cách tương tự trường hợp của các phụ nữ thánh thiện như Sarah và Hannah, là những người mà con của các bà đã hoàn thành chương trình của Thiên Chúa với dân Ngài.
Phaolô nói về con Thiên Chúa sinh ra "trong thời viên mãn" và"do một người phụ nữ, sinh ra dưới lề luật" (Gal 4:4). Sự giáng sinh của Người Con Mẹ Maria là sự viên mãn của ý Chúa cho dân Israel, và thông phần của Mẹ Maria trong sự viên mãn là lời đáp trả tự do và chấp nhận tin tưởng bằng lòng dâng hiến chính mình: "Này tôi là tôi tá Ðức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền" (Lu-ca 1: 38; Xc. TV 123:2)
Mẹ Maria sinh con theo trình thuật Mát-thêu
12. Trong khi nhiều đoạn trong tân ước đề cập đến Chúa Kitô giáng sinh, chỉ có hai phúc âm, Mát-thêu và Lu-ca, mỗi phúc âm theo ý hướng của mình, kể lại câu truyện giáng sinh và đề cập cách đặc biệt đến Mẹ Maria. Mát-thêu khởi đầu cho sách tin mừng với "gia phả Ðức Giêsu Kitô" (1:1) khiến người đọc liên tưởng đến cách mà Thánh Kinh bắt đầu (Sáng thế ký 1:1). Trong đoạn gia phả, Mát-thêu đi lên nguồn gốc của Chúa Giêsu từ cuộc lưu đầy, đến vua David, cho đến nguồn Abraham. Thánh nhân nhắc nhở vai trò quan trọng trong lịch sử cứu chuộc Israel do 4 phụ nữ mà mỗi người đưa dẫn đến tận biên giới của giao ước.
Như chúng ta thấy, Mát thêu đã cân bằng các biến cố xoay quanh việc nhập thể của Chúa Giêsu bằng cách nhấn mạnh tính liên tục của các thế hệ trong cựu ước, song song với trình thuật Chúa Giêsu giáng sinh, khi nhấn mạnh đến sự tái tạo mới (Xc. 9: 17) do Chúa Thánh Thần, mặc khải những khả năng cứu chuộc khỏi tội (1: 21). Hơn nữa, Mát-thêu còn mở rộng giới hạn khi đề cập đến nguồn gốc của Chúa Giêsu từ ngành David qua người cha hợp pháp là Giuse, và Chúa giáng sinh qua cung lòng của đức Nữ trinh theo lời tiên tri Isaia tiên báo "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai" (Is. 7: 14)
13. Trong văn bản Mát-thêu, tác giả nhắc đến Mẹ Maria khi có những liên quan giữa Mẹ và con của mình qua những câu như " Maria Mẹ Người" hoặc "trẻ thơ với Mẹ Người" (2:11; 13, 20, 21). Giữa những biến động chính trị, giết chóc và hỗn loạn, đã có một giây phút thinh lặng đầy tôn kính mang tính cách rất Kitô: Các nhà đạo sĩ, mà nghề nghiệp của họ xuất hiện theo đúng thời gian, quỳ gối tôn phục trẻ thơ là vua, cùng với mẫu nghi Mẹ Người (2: 2, 11)
Mát-thêu nhấn mạnh sự liên tục của Chúa Giêsu Kitô vào tiến trình trông chờ cứu chuộc, và một tiến trình Mesia mới lạ mà người Do thái vẫn trông chờ, do Chúa giáng sinh mang lại. Sinh ra từ dòng dõi David, dù bằng cách nào đi nữa, và sinh trong thành thánh, vương giả, biểu lộ cho thấy điều thứ nhất, tức là sự trông chờ cứu chuộc. Mang thai từ cung lòng trinh nữ mặc khải điều thứ nhì, tức là sự mới lạ Mesia.
Mẹ Maria sinh con theo trình thuật Lu-ca
14. Theo trình thuật Lu-ca, thì vai trò Ðức Mẹ Maria nổi bật ngay từ đầu. Mẹ là gạch nối giữa thánh Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu. Hai vị chào đời với nhiều phép lạ tương đồng. Mẹ nhận lời sứ thần truyền và đáp trả trong tâm tình vâng phục khiêm cung (1: 38). Mẹ tự du hành từ Galilê đến Ju-đê-a viếng thăm bà Isave (1:40). Qua bài ca, Mẹ đã chúc tụng chương trình cánh chung, chương trình sẽ là tâm điểm cho con của Mẹ rao giảng Nước Trời.
Maria là đấng suy niệm trong lòng những biến cố đang xẩy ra (2: 19, 51) và biểu lộ chiều sâu của đức tin và của những khổ đau (2: 35). Mẹ đã thay mặt Giuse đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ, dù thoạt đầu có vẻ Mẹ đã không tiếp nhận trọn vẹn những gì con nói, nhưng đã tiếp tục lớn lên trong sự hiểu biết (2: 48-51).
15. Trong trình thuật Lu-ca, hai biến cố đặc biệt mời chúng ta suy nghĩ về chỗ đứng của Mẹ Maria trong đời sống giáo hội: truyền tin và đi viếng bà thánh Isave. Những đoạn văn này nhấn mạnh cho thấy Mẹ Maria trong một cách duy nhất, đã là người lãnh nhận ân sủng và được Chúa chọn cách đặc biệt.
Trình thuật truyền tin tóm gọn nhiều đề tài lớn trong cựu ước, nhất là đề tài về sự chào đời của Isaac (Sáng thế ký 18: 10-14), Samson (Quan án 13: 2-5) và Samuel (1 Sam 1: 1-20). Sứ thần chào mừng khiến người đọc liên tưởng các đoạn văn trong Isaia (66: 7-11), Zecharia (9: 9) và Zephania (3: 14-17). Những đoạn văn này nhắc nhở "người con gái Sion", cụ thể hơn, việc Israel đang vui mừng chờ đợi Chúa đến. Sự lựa chọn của bao trùm (eposkiasei) để diễn tả hành động của Chúa Thánh Thần trong việc trinh nữ thụ thai, nhắc nhở hành động thiên thần Cherubim bao trùm hòm bia thánh (Xuất hành 25: 20), sự hiện diện của Chúa bao trùm cung thánh (xuất hành 40: 35) và Thánh Thần bao phủ nước vào thời điểm sáng tạo (Sáng thế ký 1:2)
Trong trình thuật viếng bà thánh Isave, bài ca của Mẹ Maria (Magnificat) chiếu rọi bài ca của Hannah (1 Samuel 2: 1-10), mở rộng tầm nhìn cho thấy chính Mẹ là người nói thay cho tất cả mọi người nghèo khổ, bị áp bức đang mong chờ nước công bằng của Chúa ngự đến. Ðúng như lời chào mừng của Isave, Mẹ đã nhận lời chúc phúc dành cho chính mình, khác với lời chúc phúc dành cho con (1: 42). Cũng chính trong Magnificat, Mẹ đã tiên đoán "từ nay muôn đời sẽ khen tôi có phúc" (1: 48). Văn bản cho mọi người thấy, ngay với nền tảng Thánh Kinh, Mẹ xứng đáng được tôn kích cách thích hợp, dù cho vai trò này không bao giờ tách rời ra khỏi vai trò của Mẹ là Mẹ đấng Mesia.
16. Trong câu truyện truyền tin, sứ thần gọi Mẹ là người được Chúa ưu đãi (tiếng Hy lạp là kecharitmene, nghĩa là người đang và tiếp tục lãnh nhận ân sủng) theo phương cách hiểu là, Mẹ được thánh hóa cách tiên thiên nhờ ân sủng của Chúa khi sắp đặt chương trình gọi Mẹ. Lời tuyên bố của sứ thần liên kết Chúa Giêsu "thánh thiện" và "con Thiên Chúa" với tiến trình nhập thể do Chúa Thánh Thần (1: 35). Sự thụ thai mà vẫn còn đồng trinh như thế nhắm đến vai trò làm con của Chúa cứu thế, đấng sẽ sinh ra từ cung lòng Mẹ Maria. Isave cho thấy trẻ sắp là Thiên Chúa: "Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm" (1: 43)
Qua những trình thuật trên, tiến trình Ba Ngôi trong các tác động thánh nhấn mạnh vào: sự nhập thể của Người Con đã khởi đầu, do Chúa Cha lựa chọn đức trinh nữ Maria và Chúa Thánh Thần đóng vai trò trung gian. Tương đồng, lời Fiat, Xin Vâng của Mẹ với lời kêu gọi của Chúa do sứ thần chuyển đến, đã được trả lời trong đức tin và trong tự do (1: 38).
17. Theo trình thuật Lu-ca về Chúa Giêsu giáng sinh, bài ca chúc tụng mục đồng dâng lên Chúa, song song với lời thờ lậy của các đạo sĩ dành cho hài nhi trong trình thuật theo Mát-thêu. Lại một lần nữa, những trình thuật này cho thấy trọng tâm của câu truyện giáng sinh "Họ trông thấy Maria và Giuse và hài nhi nằm trong máng cỏ" (Lu-ca 2: 16). Theo luật Môi sen, các trẻ trai sẽ chịu cắt bì và dâng trong đền thờ. Dịp này Simeon đã nói lời tiên tri đặc biệt về Mẹ của trẻ Kitô "lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn bà" (Lu-ca 2: 34-35). Từ điểm này, cuộc hành trình đức tin của Mẹ Maria dẫn đưa đến chân thập giá.
Thụ thai đồng trinh
18. Tin mừng thụ thai đồng trinh nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, (Mat-thêu 1: 20-23; Lu-ca 1: 34-35) đã tuyên bố giây phút khởi đầu thần thiêng của lịch sử nhân loại. Sự thụ thai đồng trinh xẩy ra trong sự thiếu vắng, nói rõ ra là sự thiếu vắng người cha nhân loại. Tuy nhiên, trên thực tế, sự thiếu vắng càng cho thấy dấu chỉ hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần. Niềm tin tưởng vào sự thụ thai đồng trinh, đã nằm trong truyền thống cổ thời, rồi thích ứng và phát triển cách độc lập trong Mát-thêu và Lu-ca (9). Với người tín hữu Kitô giáo, tin tưởng này là một bằng chứng hùng hồn về vai trò làm con của Chúa Kitô và của đời sống mới trong Thánh linh.
Thụ thai đồng trinh cũng biểu lộ một sự chào đời mới của mỗi Kitô hữu như dưỡng tử của Chúa. Mỗi người tái sinh (từ trên) do nước và Thánh Thần" (Gioan 3: 3-5). Dưới ánh sáng này, thụ thai đồng trinh, không thể được coi là một phép lạ lẻ loi, nhưng chính là một diễn đạt mạnh mẽ điều mà giáo hội tin tưởng về Thiên Chúa và về ơn cứu chuộc của mình.
Mẹ Maria và gia đình thật của Chúa Giêsu
19. Sau những truyện về giáng sinh là một sự kiện lạ mà cả 3 phúc âm nhất lãm đều kể lại, liên quan đến câu hỏi về gia đình thật của Chúa Giêsu. Thánh Marcô cho chúng ta nghe "Mẹ và anh em của Người" (10) (Mk 3: 31) đến và đứng bên ngoài, muốn nói chuyện với Người (11). Chúa Giêsu, khi trả lời, đã tách mình ra khỏi gia đình thể xác tự nhiên: Thay vào đó, Người nói đến những người đang tụ họp chung quanh, đến gia đình "cánh chung" của Người, đến những "ai làm theo ý Chúa." (3: 35)
Với Marcô, gia đình tự nhiên của Chúa, kể cả Mẹ ruột của Người, hình như, vào giai đoạn này, chưa hiểu bản tính thực sự sứ vụ của Người. Ðó cũng là trường hợp của các môn đệ (thí dụ 8: 33-35; 9: 30-33; 10: 35-40). Marcô còn tỏ cho thấy sự hiểu biết về gia đình thật của Người phát triển chậm và đầy đau đớn. Ðức tin thực sự trong Chúa đã chỉ đạt được khi các môn đệ đối diện với thập giá và mồ trống.
20. Trong tin mừng Lu-ca, Luca đã không nhắc nhở đến điểm tương phản giữa hình thức tìm kiếm gia đình tự nhiên của Người và gia đình cánh chung (Lu-ca 8: 19-21). Về sau (11: 27-28) một phụ nữ trong đám đông nói về Mẹ Người đầy phúc lộc "Thật diễm phúc cho cung lòng đã hoài thai Người và vú đã cho Người bú" được sửa thành "người nghe lời Chúa và giữ lời Chúa thì còn có phúc hơn." Tuy nhiên, hình thức chúc lành này, như Lu-ca trình bầy, đương nhiên bao gồm cả Mẹ Maria, là đấng mà ngay từ đầu tiên đã để mọi biến cố trong cuộc đời mình xẩy ra theo lời Chúa (1:38)
21. Trong sách thứ nhì, Công Vụ các Tông Ðồ, Lu-ca ghi nhận thời gian giữa lúc Chúa phục sinh lên trời và Chúa Thánh Thần hiện xuống, các môn đệ tụ họp tại Giêrusalem "cùng với các phụ nữ và Ðức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và anh em của Người (TÐCV 1: 14). Ðức Maria, người đã chấp nhận công tác của Thánh Thần Thiên Chúa vào lúc đấng Mesia giáng sinh (Lu-ca: 1: 35-38), nơi đây, đã hiện diện như một thành viên trong cộng đoàn môn đệ đang chờ đợi cầu nguyện Chúa Thánh Thần đến vào thời điểm giáo hội chào đời.
Mẹ Maria trong tin mừng theo Gioan
22. Tiền ngôn tin mừng theo Gioan đã không nhắc nhở đến Maria cách minh nhiên. Tuy nhiên, cần tìm hiểu nhiều điểm đáng lưu tâm nơi vai trò của Mẹ trong lịch sử cứu chuộc, bằng cách đặt Mẹ vào mạch văn các chân lý thần học, mà vị thánh sử đã diễn đạt khi khai mở tin mừng nhập thể. Ðiểm nhấn mạnh thần học giây phút thần thiêng của chương trình cứu độ, mà Mát-thêu và Lu-ca đã bầy tỏ khi Chúa giáng sinh, đã cùng song song với tự ngôn theo Gioan, khi Gioan nhấn mạnh ân sủng và ý muốn tiền định của Chúa; qua đó, tất cả những ai sinh ra trong đời sống mới, sinh ra "không bởi máu huyết, không bởi ý người phàm, không bởi ý đàn ông, nhưng bởi Chúa (Gioan 1:13). Ðây là những lời được áp dụng ngay cả cho việc chính Chúa giáng sinh.
23. Gioan ghi nhận sự hiện diện của Mẹ Maria, Mẹ Chúa nơi hai biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa, lúc khởi đầu (tiệc cưới Cana) và kết thúc (thập giá). Mỗi biến cố là một giờ cần thiết: giờ đầu, sự hiện diện của Mẹ mờ nhạt bên ngoài; nhưng đó chính là dấu chỉ báo trước cho giờ sau với sự tham dự sâu thẳm hơn trong nội tâm. Gioan đưa ra vai trò nổi bật trong tin mừng của mình, biến cố tiệc cưới Cana (Gioan 2: 1-12). Gioan coi đó như khởi sự (arche) các dấu chỉ của Chúa Giêsu. Biến cố nhấn mạnh đến rượu mới mà Chúa biến từ nước, cho thấy tiệc cưới cánh chung của Thiên Chúa với dân Ngài và tiệc cưới thiên sai của nước trời. Câu truyện trước hết nhằm mang một sứ điệp Kitô: Chúa Giêsu mặc khải vinh quang thiên sai của Người cho các môn đệ, và họ đã tin vào người (2:11).
24. Phần đầu câu truyện nhắc đến sự hiện diện của "Mẹ Ðức Giêsu": Mẹ đóng vai trò nổi bật khi câu truyện lần lần tỏ hiện. Mẹ hình như được mời và hiện diện riêng rẽ chứ không cùng với "Chúa Giêsu và các môn đệ của Người" (Gioan 2: 1-2); Chúa Giêsu, lúc ban đầu, xuất hiện như một phần tử trong gia đình Mẹ của Người. Trong cuộc đàm thoại giữa hai Mẹ con khi hết rượu, hình như Chúa từ chối lời xin của Mẹ, nhưng cuối cùng, Người nhận lời.
Tuy nhiên, bài đọc này đưa dẫn chúng ta đến một dấu chỉ suy tư sâu xa hơn nữa. Theo lời của Mẹ "họ hết rượu rồi," Gioan đã không muốn nhắm đến đám cưới thiếu thốn, cho bằng niềm mong ước ơn cứu chuộc của dân tộc thuộc về giao ước cũ, là những người có nước thanh tẩy, nhưng thiếu rượu vui mừng của nước trời thiên sai. Trong câu trả lời, Chúa Giêsu bắt đầu bằng câu hỏi về liên hệ của Chúa với Mẹ mình ("việc gì giữa bà và tôi?") cho thấy cách mặc nhiên rằng đến lúc cần thay đổi giao ước này. Chúa đã không gọi Ðức Maria là Mẹ, nhưng dùng chữ bà (Xc. Gioan 19:26). Ðức Giêsu đã không chỉ thấy liên hệ của Người với Mẹ Maria đơn thuần trên khía cạnh con người.
25. Câu trả lời của Maria, dậy bảo các người tớ "hãy làm những gì Người bảo" (Gioan 2: 5) thực là không lường trước. Mẹ không phải là người cầm đầu bữa tiệc (Xc. 2:8). Vai trò của Mẹ lúc ban đầu là Mẹ Chúa Giêsu cũng đã thay đổi tận gốc. Mẹ trở thành một tín hữu trong cộng đoàn chờ ơn cứu chuộc. Từ giây phút này trở đi, Mẹ hoàn toàn phó thác mình vào đấng Thiên sai cứu chuộc và vào lời Người.
Những kết quả của mối tương giao mới cho thấy thay đổi theo thứ tự những nhân vật chính vào cuối câu truyện: "Sau đó, Người đi xuống Capernaum cùng với Mẹ và với anh chị em của Người cũng như với các môn đệ" (2: 12). Trình thuật tiệc cưới Cana khai mở bằng cách đặt Chúa Giêsu trong gia đình Mẹ Maria, Mẹ Người; từ nay trở đi, Mẹ Maria là một thành viên trong "đoàn thể Giêsu," là môn đệ của Chúa. Ðọc đoạn văn này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn vai trò của Mẹ Maria: giúp cho các môn đệ đến với Chúa Giêsu Kitô, và "làm những gì Người bảo."
26. Gioan, lần thứ nhì nói về sự hiện diện của Mẹ Maria vào thời điểm quyết định của sứ vụ thiên sai nơi Chúa Giêsu, lúc tử nạn (19: 25-27). Ðứng cùng với các môn đệ dưới chân thập giá, Mẹ Maria chia sẻ đau khổ của Chúa Giêsu, là đấng mà vào cuối đời đã nói những lời đặc biệt với Mẹ "Thưa bà, đây là con bà," và với người môn đệ yêu quý "đây là Mẹ con." Chúng ta thực không thể không cảm động khi thấy ngay cả đến giây phút cuối cuộc đời, Chúa Giêsu vẫn còn lo lắng cuộc đời của me, cho thấy tình yêu con thảo với Mẹ hiền.
Bài đọc này lần nữa mời gọi chúng ta đến ý tưởng điển hình và mang tính cách toàn diện của văn mạch theo Gioan. Lời trăn trối của Chúa Giêsu trước khi chết, khai mở sự hiểu biết vượt trên sự hiểu biết lần đầu dành cho Mẹ Maria và cho "người môn đệ yêu quý" như những cá nhân. Tương quan giữa "bà" và "môn đệ" liên hệ chặt chẽ với căn tính của giáo hội. Tại một nơi khác, Gioan, người môn đệ yêu quý, xuất hiện như môn đệ khuôn mẫu của Giêsu. Người môn đệ này luôn gần gũi với thầy, không bao giờ lìa bỏ thầy, là đối tượng Chúa yêu thương và là chứng nhân trung tín (13: 25; 19: 26, 20: 1-10, 21: 20 - 25). Hiểu biết các từ ngữ và ý nghĩa về môn đệ tính, những lời của Giêsu khi gần tử nạn, đã biểu dương vai trò từ mẫu của Mẹ trong giáo hội, và khuyến khích cộng đoàn môn đệ nhận Mẹ là Mẹ tinh thần của mình.
27. Sự hiểu biết đầy đủ từ ngữ "bà" cũng mời gọi giáo hội liên tục nhớ lời trăn trối của Chúa, và mời gọi mỗi môn đệ lo lắng cho giáo hội là Mẹ. Một cách mặc nhiên, nơi đây có lẽ là hình ảnh Maria-Evà: Như người phụ nữ đầu tiên, rút ra từ xương sườn ông Adong (Sách thế ký 2:22, LXX), và là Mẹ của chúng sinh (Sáng thế ký 3: 20) thì người phụ nữ, "bà" Maria, trên bình diện tinh thần, cũng là Mẹ của mọi người, nhận lãnh sự sống đời đời từ nước và máu chẩy ra từ cạnh sườn (tiếng Hy lạp là pleura, tức là sườn) của Ðức Kitô (19: 34), và từ Thánh Linh, Ðấng thở hơi trên lễ vật toàn thắng (19: 30, 20: 22, Xc. 1 Gioan 5: 8).
Từ những bài đọc mang tính dấu chỉ và toàn bộ như vậy, hình ảnh về giáo hội, về Mẹ Maria và về môn đệ tính liên kết với nhau. Maria, như một Israel nhân cách hóa, bây giờ sinh ra cộng đoàn Kitô hữu (Xc. Is, 54: 2, 66: 7-8) như khi xưa Mẹ đã sinh ra Ðấng Thiên sai (Xc. Is 7: 14). Khi nhìn đến văn mạch của Gioan về Maria trong tiến trình khai mở và kết thúc sứ vụ của Chúa Giêsu theo ánh sáng này, thì thực khó có thể nói về giáo hội mà không nhớ đến Mẹ Maria, Mẹ Chúa cứu thế, như là đấng đại biểu tượng và đấng mà Chúa muốn mọi người trở thành.
Người nữ trong Khải Huyền 12
28. Trong mạch văn ngôn ngữ đầy những hình ảnh Thánh Kinh, tiên kiến (seer) của khải huyền diễn tả một viễn kiến dấu chỉ trên thiên đàng liên quan đến người phụ nữ, con rồng và con của phụ nữ. Trình thuật chương 12 Khải huyền cho người đọc nhận ra chiến thắng chung cuộc của người tôi trung Chúa vào thời gian họ bị bách hại và bị thử thách ở thời điểm cánh chung. Theo tiến trình lịch sử, ẩn tượng của người phụ nữ dẫn đưa đến nhiều giải thích khác nhau. Ða số các vị nghiên cứu thần học đều đồng ý, ý nghĩa căn bản của hình ảnh người phụ nữ mang tính cách tập hợp: dân Chúa, dù đó có thể là dân Israel, hoặc là giáo hội của Chúa Kitô, hoặc cả hai. Hơn nữa, văn phong trình thuật của tác giả gợi ý "trọn vẹn bức ảnh" của người phụ nữ chỉ được nhận ra vào phần cuối cuốn sách, khi giáo hội chiến thắng của Chúa Kitô trở nên Tân Giêrusalem chiến thắng (Khải huyền 21: 1- 3). Những khó khăn hiện tại của cộng đồng mà tác giả đang sống xuất hiện trong khung cảnh toàn bộ lịch sử, một khung cảnh mà nơi đó các tranh chấp tiếp tục diễn ra giữa người trung tín và kẻ thù của họ, giữa thiện và ác, giữa Thiên Chúa và quỷ Satan. Hình ảnh dòng dõi người con nhắc nhở chúng ta sự tranh chấp trong Sáng thế ký 3: 15 giữa con rắn và người phụ nữ, giữa dòng dõi con rắn và dòng dõi người phụ nữ (12).
29. Nhìn nhận lối giải thích này làm căn bản cho chương 12 của sách Khải huyền về giáo hội, phải chăng người ta còn có thể áp dụng, như lối giải thích thứ hai, về Mẹ Maria nữa chăng? Bản văn không minh nhiên đồng hóa người phụ nữ với Mẹ Maria. Bản văn đề cập đến người phụ nữ như là Mẹ của "trẻ nam, là người sẽ cai trị mọi dân tộc với gậy sắt," một lời trích dẫn từ thánh vịnh 2 áp dụng vào đấng thiên sai cũng như vào dân trung tín của Chúa trong Tân ước (Xc. Do Thái 1: 5; 5: 5; TÐCV 13: 33 với Khải huyền 2: 27).
Theo chiều hướng đó, một số vị giáo phụ nghĩ đến hình ảnh của Mẹ Chúa Giêsu khi đọc chương này (13). Khi chú tâm đến vị trí của sách khải huyền trong toàn bộ kinh thánh, là nơi mà nhiều hình ảnh Thánh Kinh hòa lẫn với nhau, người đọc hy vọng sẽ tìm ra các giải thích rõ rệt hơn, theo văn mạch chương 12, nhắm đến cá nhân hoặc tập thể. Những giải thích này sẽ soi sáng vị thế của Mẹ Maria và của giáo hội trong chiến thắng chung cuộc của đấng Thiên sai.
Suy niệm Thánh Kinh
30. Chứng nhân Thánh Kinh nhắc nhở tín hữu muôn đời sẽ gọi Mẹ Maria "có phúc"; người phụ nữ Do Thái khiêm hạ, con gái Israel sống trong hy vọng công chính cho người nghèo túng, người trinh nữ Chúa chúc phúc và tuyển chọn làm Mẹ đồng trinh của Con Ngài qua sự bao phủ của Thánh Thần. Chúng ta chúc tụng Mẹ là "tôi tớ Ðức Chúa Trời." Chúa là Ðấng ban cho Mẹ ơn đồng thuận trong tiến trình làm trọn chương trình cứu chuộc của Chúa, trong tâm tình người Mẹ suy niệm mọi sự trong lòng, người tỵ nạn đi tìm nơi tạm dung trên miền đất lạ, người Mẹ bị đau đớn khi thấy con bị đánh đập, và người phụ nữ Chúa Giêsu uỷ thác trông coi các môn đệ. Chúng ta hiệp nhất với Mẹ và với các môn đệ khi họ cùng cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần xuống trên giáo hội, trên gia đình cánh chung vừa chào đời. Và chúng ta cũng có thể nhìn thoáng thấy trong Mẹ định mệnh sau cùng của dân Chúa chia sẻ chiến thắng với con Mẹ trên quyền lực thần dữ và sự chết.
B. Mẹ Maria trong truyền thống Kitô giáo
Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong truyền thống chung cổ thời
31. Trong giáo hội thuở sơ khai, người ta nhắc đến những suy tưởng về Mẹ Maria khi giải thích và bảo toàn truyền thống tông đồ. Tông truyền này tập trung nơi Chúa Giêsu. Chứng tá thời giáo phụ nói về Mẹ Maria như "Ðấng cưu mang Thiên Chúa" (Theotokos) dựa theo suy niệm Thánh Kinh và nghi thức cử hành Kitô giáo. Các khai triển về Mẹ dần dần tăng theo thời gian qua các tranh cãi Kitô học sơ khai. Dựa trên các tranh cãi nghiêm trọng của năm thế kỷ đầu, và kết luận của nhiều Công đồng đại kết, suy tư về vai trò của Mẹ Maria trong tiến trình Chúa Kitô nhập thể đã hòa nhập trọn vẹn với một đức tin chính thống nơi Ðức Giêsu Kitô, Ðấng là Thiên Chúa thật và là người thật.
32. Ðể bảo vệ ý tưởng tin rằng Ðức Kitô có bản tính và thân xác con người thật, và cũng để chống lại thuyết "Ảo tưởng" (Docetism), giáo hội sơ khai đã nhấn mạnh đến sự kiện Chúa sinh ra từ cung lòng Mẹ Maria. Chúa không chỉ "xuất hiện giống như" người; Chúa không từ trời xuống thế với "thân xác trời", cũng không phải ngài chào đời bằng cách "chỉ đi qua" Mẹ Người. Thực tế, Maria sinh hạ con trai của mình bằng chính bản thân mình.
Với thánh Ignatio thành Antioch (+110) và Tertullian (+225), thì Chúa Giêsu là con người thật cách trọn vẹn vì Người "thực sự" sinh ra bởi Mẹ Maria. Lời tuyên xưng của kinh tin kính Nicene-Constantinople (381) viết "Người đã nhập thể bởi Chúa Thánh Thần và bởi đức trinh nữ Maria, và đã làm người." Ðịnh nghĩa của Công đồng Chalcedon (451) tái khẳng quyết kinh tin kính này, nhấn mạnh "Chúa Giêsu cùng bản tính với Ðức Chúa Cha theo thiên tính, và cùng bản tính với chúng ta theo nhân tính." Kinh tin kính theo thánh Athanasio còn tuyên xưng cách cụ thể hơn qua lời "Chúa là người, cùng bản tính với Mẹ mình." Cả hai tôn giáo Anh giáo và Công giáo Roma khẳng quyết như vậy.
33. Ðể bảo vệ thiên tính đích thực của Người, giáo hội sơ khai đã nhấn mạnh tiến trình thụ thai đồng trinh của Mẹ Maria khi cưu mang Chúa Giêsu. Theo các giáo phụ, sự thụ thai do Chúa Thánh Thần, đã minh chứng nguồn gốc và căn tính thần thiêng của Người, đấng sinh ra bởi Mẹ, là con đời đời của Thiên Chúa.
Các vị giáo phụ Ðông và Tây - như thánh Justinô (+150), Ireneus (+202), Anathasio (+373), và Ambrosio (+397) - khai triển lời dậy dỗ của tân ước bằng những hạn từ dùng trong Xuất hành chương 3 (Mẹ Maria là đại biểu tượng của một "Evà đồng trinh"), và trong Isaia (7: 14) (Mẹ làm trọn lời hứa của tiên tri và sinh hạ đấng "Thiên Chúa ở cùng chúng tôi"). Các vị đã dùng tiến trình thụ thai đồng trinh bảo vệ cho thiên tính Chúa cứu thế và danh dự của Chúa Giêsu. Như kinh tin kính các tông đồ tuyên xưng: Chúa Chúa Giêsu Kitô "thụ thai nhờ Chúa Thánh Thần, và sinh ra từ cung lòng Ðức Maria." Cả hai tôn giáo Anh giáo và Công giáo Roma cùng khẳng quyết như vậy.
34. Danh xưng Mẹ Maria Theotokos (Ðấng cưu mang Thiên Chúa) chính thức nhắc nhở việc bảo vệ giáo lý chính thống của ngôi vị Ðức Kitô hiệp nhất. Người ta đã dùng danh xưng này trong các giáo đoàn miền Alexandria, ít nhất là vào thời gian có bè rối Arius. Vì Chúa Giêsu Kitô "là Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật" như Công đồng Nicea (325) tuyên tín, các giáo đoàn này quyết định phải gọi Mẹ của Người, Chúa Giêsu, là Mẹ Thiên Chúa.
Tuy nhiên, các nhà thờ dưới ảnh hưởng của Antioch, đang khi lưu tâm đến sự đe dọa của chủ thuyết Apolinaris (14) về nhân tính trọn vẹn của Ðức Kitô, đã không nhận tước hiệu này ngay tức khắc. Cuộc tranh luận diễn ra giữa Cyril thành Alexandria (444) và Nestorius (455) thượng phụ giáo chủ thành Constanstinople, người được huấn luyện theo trường phái Antioch, cho thấy vấn đề cốt tuỷ về danh hiệu Mẹ Maria chính là sự hiệp nhất của ngôi con, Ðức Kitô.
Công đồng thành Ephesô (431) dùng từ ngữ Theotokos (người cưu mang Chúa; tiếng La tinh là Deipara) minh xác sự duy nhất của ngôi vị Ðức Kitô bằng cách nhận định rằng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa nhập thể (15). Căn bản đức tin vấn đề này diễn đạt cách chính xác hơn trong định nghĩa theo Công đồng Chalcedon: "Một và cùng chính người con... thiên tính được sinh ra từ Ðức Chúa Cha muôn đời; về sau, vì chúng ta và vì ơn cứu rỗi của chúng ta, nhân tính đã sinh ra làm người từ Mẹ Maria đồng trinh Theotokos." Dựa trên định nghĩa của Công đồng Ephêsô và Chalcedon, giáo hội Anh giáo và Công giáo Roma cùng nhau tuyên xưng rằng Mẹ Maria là Theotokos.
Các lễ nghi cử hành kính Mẹ Maria theo truyền thống cổ thời
35. Vào những thế kỷ đầu, hiệp thông trong Ðức Kitô, bao gồm cả sự hiện diện sống động của các thánh như là một phần không thể thiếu trong cảm nghiệm tinh thần của các cộng đoàn giáo hội (Heb. 12: 1, 22-24; Rv. 6: 9-11; 7; 8: 3-4). Từ "đám mây nhân chứng" Mẹ đấng cứu thế xuất hiện với một vị thế đặc biệt. Các chủ đề dựa trên Thánh Kinh và lòng sùng kính dành cho Mẹ Maria dần dần phát triển, biểu lộ sự hiểu biết sâu xa về vai trò của Mẹ trong mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại. Các chủ đề này nhìn Mẹ như người đối tác của Evà và khuôn mẫu của giáo hội. Người Kitô hữu nồng nhiệt tôn vinh những chủ đề về Mẹ tại các buổi cầu nguyện chung hoặc riêng.
36. Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh vui mừng khi tìm ra hình ảnh đượm mầu nữ tính từ Thánh Kinh khi suy niệm ý nghĩa của giáo hội và của Mẹ Maria. Các vị giáo phụ, ngay từ thời gian đầu như Justinô tử đạo (150) và Ireneus (202) khi suy tư các bản văn như Xuất hành 3 và Lu-ca 1: 26-38, đã khai triển phản đề Adong mới, Evà mới. Cũng như Evà liên hệ với Adong khi phạm tội, thì Mẹ Maria cũng liên kết với con Mẹ khi chiến thắng kẻ thù xưa (Xc. Sáng thế ký 3: 15, và giải thích vide supra số *4): "người trinh nữ" Evà không vâng phục dẫn đưa đến sự chết; trinh nữ Maria vâng phục dẫn đưa đến ơn cứu chuộc. Evà mới chia sẻ chiến thắng với Adong mới vượt trên tội và thần chết.
37. Các giáo phụ cũng trình bầy Mẹ Maria, Mẹ đồng trinh như khuôn mẫu thánh thiện của trinh nữ thánh hiến. Các ngài cũng dần dần trình bầy rằng Mẹ đã luôn "giữ mình đồng trinh."(16) Trong suy tư này, trinh trắng không chỉ hiểu như sự vẹn toàn thể lý, mà còn là sự cởi mở nội tâm, sự vâng phục và một niềm trung tín với Ðức Kitô. Những đặc điểm đó là khuôn mẫu cho đặc tính môn đệ Kitô và nẩy sinh hoa trái thiêng liêng.
38. Với sự hiểu biết giáo phụ đó, đồng trinh của Mẹ Maria liên hệ mật thiết với đời sống thánh thiện của Mẹ. Mặc dầu một vài vị chú giải thuở sơ khai nghĩ rằng Mẹ Maria không hoàn toàn khỏi tội (17), Augustinô (430) minh xác rằng thật khó để có thể kể Mẹ mang bất cứ một tội nào.
"Chúng ta phải không kể đến đức thánh trinh nữ Maria là đấng mà tôi muốn nói rằng, khi chúng ta bàn về tội, thì không thể áp dụng cho Mẹ, vì vinh quang Thiên Chúa. Từ Chúa, chúng ta biết ân sủng tràn đầy chiến thắng tội. Hồng ân Chúa, trong những trường hợp đặc biệt, khiến cho Mẹ là đấng đã vinh dự cưu mang Thiên Chúa, không có bất cứ một tội nào" (De Natura et Gratia 36, 42)
Các vị giáo phụ khác từ Ðông và Tây, dựa trên lời chào của sứ thần (Lu-ca 1: 38) ủng hộ quan điểm Mẹ Maria đầy ân sủng từ trong lòng thân mẫu, theo chương trình quan phòng trước của Thiên Chúa dành cho Mẹ, là Mẹ Ðấng cứu thế. Cho đến thế kỷ thứ 5, các giáo phụ ca tụng Mẹ là tạo vật mới: tinh tuyền, vô tội "thánh thiện nơi thân xác cũng như tâm hồn" (Theodotus of Ancyra, bài giảng 6, 11 trước năm 446). Ðến thế kỷ thứ VI, giáo hội Ðông phương dành tước hiệu panaghia ("Trọn thánh") cho Mẹ.
39. Sau những tranh luận Kitô học tại hai Công đồng Ephêso và Chalcedon, lòng sùng kính Mẹ Maria càng nở hoa. Khi thượng phụ thành Antioch từ chối tước hiệu Theotokos dành cho Mẹ, đại đế Leo I (457-474) truyền cho thượng phụ Constanstinople đưa tên hiệu này vào kinh nguyện thánh thể Ðông phương. Ðến thế kỷ thứ VI, tưởng nhớ Mẹ Maria là "đấng cưu mang Thiên Chúa" đã trở thành toàn cầu trong các kinh nguyện thánh thể dùng cho cả Ðông cũng như Tây phương (trừ giáo hội Assyria Ðông phương)
Các bản văn và hình ảnh cử hành đời sống thánh thiện của Mẹ Maria xuất hiện trên nhiều thi văn và ca nhạc phụng vụ, như Akathist, tụng ca, có lẽ xuất hiện sau Công đồng Chalcedon, và vẫn dùng hát trong các nhà thờ Ðông phương bây giờ. Truyền thống cầu nguyện với Mẹ Maria và chúc tụng Mẹ sau đó dần dần triển khai. Song song với sự triển khai này, từ thế kỷ thứ 4 tại Ðông phương, người ta cầu khẩn xin Mẹ phù trì.
40. Sau Công đồng Ephesô, nhiều giáo hội bắt đầu sùng kính Mẹ Maria. Giáo dân cử hành lễ trọng kính Mẹ vào những ngày đặc biệt tại nhà thờ. Từ lòng sùng mộ chung, và dần dần được giáo hội địa phương chấp nhận, các lễ kính Mẹ Maria hoài thai, sinh nhật Ðức Mẹ (8 tháng 9), dâng mình (21 tháng 11), về trời (15 tháng 8) trở nên phổ biến. Những lễ này phản ảnh sự tưởng nhớ các biến cố trong cuộc đời Chúa Cứu thế theo nghi thức phụng vụ. Những sự sùng mộ và lễ kính đã dựa trên nền tảng Thánh Kinh cũng như trên ngoại thư về cuộc đời khi Mẹ còn trẻ và khi Mẹ "về trời".
Lễ mừng Mẹ hoài thai bắt đầu tại phương Ðông vào cuối thế kỷ thứ 7, rồi phát triển tại giáo hội Tây phương qua miền nam Anh quốc vào đầu thế kỷ 11. Lễ này, song song với lễ Chúa nhật truyền tin, cũng như với lễ hoài thai của thánh Gioan tiền hô, dựa trên lòng sùng mộ chung từ thế kỷ thứ 2 theo truyền thống giảng dậy của thánh tông đồ Gia cô bê.
Lễ Ðức Mẹ về trời xuất hiện vào hậu bán thế kỷ thứ 6, nhưng trước đó, các truyền thuyết về cuối đời của Mẹ đã rộng rãi phổ biến. Tại Tây phương, lễ mang ảnh hưỏng nhất về chủ đề này tên là Transitus Mariae (Mẹ di chuyển). Tại Ðông phương, lễ có tên dormition (Mẹ thiếp đi) nghĩa là Mẹ chết nhưng cũng có nghĩa là Mẹ về trời. Tại Tây phương, người ta thường dùng từ ngữ linh hồn và xác lên trời, nhấn mạnh rằng Mẹ về trời, nhưng cũng có nghĩa rằng Mẹ đã chết.
Niềm tin Mẹ về trời dựa trên lời hứa phục sinh và trên sự xác tín Mẹ là đấng Theotokos và"trọn đời đồng trinh." Niềm tin đó, cùng với các sự xác tín Mẹ đã sinh ra Ðấng Sự Sống, cần liên kết với cuộc chiến thắng của Người Con trên cái chết, và liên kết với vinh quang của thân thể Chúa là giáo hội.
Các tiến triển trong giáo lý và lòng sùng mộ Mẹ Maria thời Trung cổ
41. Lòng sùng mộ và các lễ dành cho Mẹ Maria khiến cho một số đông vị giảng thuyết nhắc nhở nhiều đến Mẹ trong bài giảng. Qua bài giảng, nhà giảng thuyết đào sâu Thánh Kinh, tìm tòi các khuôn mẫu và lý do, soi sáng vị thế của đức trinh nữ trong nhiệm cuộc cứu độ. Thời trung cổ, người ta chú tâm đến nhân tính của Ðức Kitô qua việc lưu tâm nhân đức gương mẫu của Mẹ, thí dụ như Thánh Bernard nhiều lần nhắc nhở nhân đức của Mẹ trong bài giảng. Suy niệm cuộc đời của cả Chúa Kitô và Mẹ Maria ngày càng trở nên phổ thông và phát triển cao độ, dẫn đưa đến các sùng kính khác như kinh mân côi và nghệ thuật thánh. Tranh vẽ, điêu khắc và kiếng mầu vào thời hậu và Ðại trung cổ phản ảnh rộng rãi lòng sùng kính này.
42. Vào những thế kỷ trên, có nhiều chuyển biến thần học về Mẹ Maria. Các thần học gia thời Ðại trung cổ khai triển suy tư giáo phụ nhìn Mẹ như "khuôn mẫu" của giáo hội, và là Evà mới, khi liên kết với Chúa Kitô trong tiến trình cứu chuộc. Trọng tâm của những suy tư nơi người tín hữu vào thời điểm này chuyển từ một Maria, đại diện cho giáo hội trung tín, và một nhân loại được cứu rỗi, sang một Maria, người thông truyền ân sủng Ðức Kitô cho giáo dân.
Các thần học gia Tây phương khai mở một hệ thống đức tin về chính Ðức Kitô dựa trên quyền của Mẹ. Ða số các phần trong giáo lý này bàn luận sự thánh thiện và ơn được thánh hóa của Mẹ Maria. Các vấn nạn trên, không những chịu ảnh hưởng của nền thần học kinh điển về ân sủng và tội nguyên tổ, mà còn chịu ảnh hưởng từ các giả thuyết liên quan đến sự sinh sản và liên hệ giữa hồn với xác. Thí dụ, nếu Mẹ Maria được thánh hóa trong lòng của Mẹ Ngài (thánh Isave), thì Gioan tiền hô và Jeremia còn hoàn hảo hơn; các nhà thần học nghĩ rằng giây phút quan trọng của sự thánh hóa nơi Mẹ, cần được định đoạt theo sự hiểu biết đương thời vào lúc "linh hồn" của Mẹ hoài thai trong thân xác.
Những phát triển thần học của phương Tây về ân sủng và tội lỗi đặt ra vấn nạn khác: Làm cách nào Mẹ Maria không vướng tội nào, kể cả tội nguyên tổ, mà không ngăn trở vai trò Chúa Kitô là đấng cứu chuộc mọi người? Những suy tư chuyên môn khác dẫn đưa đến cuộc thảo luận căng thẳng, về cách nào Chúa Kitô cứu chuộc đã ban ân sủng trước, gìn giữ Mẹ Maria khỏi tội nguyên tổ? Hệ thống lý luận thần học do thánh Thomas Aquinô viết trong cuốn Tổng luận thần học, và Duns Scotus lý luận cách tế nhị trong nhiều cuộc tranh luận, đã bàn về vấn đề phải chăng Mẹ Maria vô nhiễm ngay từ lúc mới hoài thai.
43. Thời hậu trung cổ, thần học kinh điển mạnh mẽ phát triển và tách biệt khỏi trường phái suy niệm tâm linh. Các nhà thần học kinh điển, nhằm tạo nên vị thế của riêng mình, càng ngày càng ít tìm nguồn gốc nơi các chú giải Thánh Kinh, đã đưa ra suy luận riêng; trong khi đó, các nhà "danh xưng học" (nominalist) (19) lại tìm hiểu xem điều gì được thể hiện nhờ uy quyền và ý muốn tối thượng của Thiên Chúa. Với niềm tin tôn giáo bình dân, Mẹ Maria xuất hiện như vị trung gian giữa Chúa và con người, và như người có quyền làm phép lạ, một quyền xuất phát từ đấng thần linh. Ðương nhiên, niềm sùng kính bình dân này ảnh hưởng không ít trên ý kiến thần học của những người sinh ra và lớn lên trong thời đại đó, và trên những ai chú tâm nghiên cứu lòng sùng kính dành cho Mẹ Maria của thời trung cổ.
Từ thời Cải cách cho đến Ngày nay
44. Một phản ứng mạnh mẽ thời Cải cách vào đầu thế kỷ 16, là phản ứng chống lại các thực hành biểu lộ lòng sùng kính, coi Mẹ Maria như đấng trung gian song song với Chúa Kitô, hoặc trong vài trường hợp, thay thế cả cho Người. Các loại tôn kính quá đáng như vậy, đôi khi xuất hiện cùng với ý tưởng nhìn Chúa Kitô như vị thẩm phán khó tính hoặc vị cứu chuộc khó khăn, bị Erasmus và Thomas More chỉ trích nặng nề. Nhóm Cải cách mạnh mẽ bài bác các tôn kính trên. Cùng với các chương trình tái đón nhận nhận Thánh Kinh tận nguồn như căn bản nền tảng cho tiến trình mặc khải thánh, còn có sự kiện nhóm Cải cách (tức là Tin Lành) tái đón nhận nhận niềm tin, Chúa Kitô là đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Ðiều này khiến cho người ta loại bỏ các quá trớn chung quanh việc sùng kính Mẹ Maria. Nhưng đồng thời, nó cũng dẫn đến tình trạng mất đi một vài giá trị tích cực khi tôn kính, và làm giảm giá trị vị thế của Mẹ trong đời sống giáo hội.
45. Trong hoàn cảnh đó, các người Cải cách Anh giáo vẫn tiếp tục nhận đức tin truyền thống từ thời giáo hội sơ khai liên quan đến Mẹ Maria. Quan niệm mang tính cách tích cực của họ liên quan đến lời giáo huấn về Mẹ Maria khi nhắm đến vai trò của Mẹ lúc Chúa nhập thể: Cao điểm vai trò của Mẹ là đấng Theotokos, bởi vì vai trò này được cả Thánh Kinh cũng như truyền thống cổ thời chấp nhận. Theo truyền thống cổ thời của giáo hội và của các nhà Cải cách như Martin Luther, các người Cải cách Anh giáo như Latimer (Works, 2: 105), Cranner (Works, 2: 60; 2: 88) và Jewel (Works 3: 440-441) nhìn nhận rằng Mẹ Maria "luôn đồng trinh." Theo Augustinô, họ cũng miễn cưỡng nếu phải nói rằng Mẹ Maria có tội. Ðiểm ưu tư căn bản, là cần nhấn mạnh Chúa Kitô chắc chắn không có tội, và mọi người, kể cả Mẹ Maria, đều cần đấng Cứu thế (Xc. Lu-ca 1: 47). Chương IX và XV xác quyết tình trạng tội lỗi chung của nhân loại. Những chương này không quả quyết cũng không chối bỏ việc Mẹ Maria có thể miễn trừ khỏi tội nhờ ân sủng. Cần ghi nhận, trong sách Cầu Nguyện Chung, phần Nhập lễ và tiền tụng của lễ giáng sinh diễn tả Mẹ Maria như một trinh nữ vẹn toàn.
46. Từ năm 1561, lịch giáo hội Anh giáo (sau đó là Sách Cầu nguyện chung 1662) đã có 5 lễ liên hệ với Mẹ Maria: Mẹ hoài thai, Mẹ chào đời, Truyền tin, Mẹ thăm viếng bà thánh Isave và Mẹ dâng mình. Tuy nhiên, không có lễ Ðức Mẹ linh hồn và xác lên trời (15 tháng 8). Anh giáo không có lễ này không hẳn là vì không thấy nguồn gốc trong Thánh Kinh, mà với Anh giáo, nếu làm như vậy, thì đã tán dương Mẹ Maria theo cung cách tán dương Chúa Kitô. Phụng vụ Anh giáo, như trong cách sách Cầu Nguyện chung (in các năm 1549, 1559, 1662) diễn tả, khi nhắc đến Mẹ Maria, thì chú tâm đến vai trò của Mẹ là đấng "trinh nữ toàn vẹn," là Ðấng mà người Con từ bản thể đó đã nhận bản tính con người. (Xc. Chương II).
Dù lòng sùng kính dành cho Mẹ Maria có giảm thiểu vào thế kỷ 16, các sự kính nhờ Mẹ chuyển cầu và ban ơn, vẫn tiếp tục kéo dài qua việc đọc Magnificat trong kinh chiều, cũng như việc dâng hiến các nhà thờ cổ và nguyện đường lên Mẹ. Vào thế kỷ 17, các văn gia như Lancelot Andrewes, Jeremy Taylor va Thomas Ken canh tân truyền thống giáo phụ, khiến tín hữu đương thời tri ân hơn vai trò của Mẹ trong các kinh nguyện và trong nhà thờ. Thí dụ, Andrewes trong sách Preces Privatae đã mượn các phụng vụ Ðông phương khi ông "tưởng nhớ đấng thánh và vô nhiễm, hơn là đấng Mẹ Thiên Chúa và trọn đời đồng trinh Maria." Sự canh tân này kéo dài đến thế kỷ sau, và phong trào Oxford tiếp tục dùng trong thế kỷ 19.
47. Trong giáo hội Công giáo Roma, giáo lý và lòng sùng kính dành cho Mẹ Maria tiếp tục phát triển tuy có đôi phần yếu sau Công đồng Trent (1545-1563). Cũng một phần, các buổi tranh luận, bài bác giáo lý giữa Tin lành và Công giáo ảnh hưởng đến việc này. Là người Công giáo Roma cũng đồng nghĩa với lòng sùng kính Mẹ Maria. Lòng sùng kính sâu xa và rộng rãi dành cho thần học Maria vào thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20 đóng góp nhiều vào định nghĩa tín điều vô nhiễm nguyên tội (1854), tín điều linh hồn và xác lên trời (1950).
Mặt khác, các chỉ trích về thần học Maria cũng bắt đầu nổi lên trong và vượt trên giáo hội Công giáo Roma, khiến cho một tiến trình tái đón nhận (rereception) khởi sự. Sự tái đón nhận này lộ rõ trong Công đồng Vatican II, khi, dựa trên các văn bản và hiểu biết Thánh Kinh, nguồn giáo phụ và phụng vụ đương thời, và mối ưu tư về hiệp nhất, đã quyết định không soạn một tài liệu riêng về Mẹ Maria, nhưng đưa ra một giáo lý về Mẹ trong Hiến chế bàn về giáo hội Lumen Gentium (1964). Nói cho rõ hơn, các công nghị viên công đồng đã đưa tài liệu này vào chương cuối khi bàn đến cuộc hành trình cánh chung của giáo hội (Chương 8).
Công đồng có ý muốn giải thích cách cẩn thận cả hai vai trò của đức trinh nữ Maria trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể và trong thân xác huyền nhiệm, cũng như các bổn phận của đoàn dân được cứu chuộc dành cho Ðấng Cưu mang Thiên Chúa, tức là Mẹ đức Kitô và Mẹ của nhân loại, nhất là Mẹ các tín hữu (Chương 54). Lumen Gentium kết luận bằng cách gọi Mẹ Maria là dấu chỉ ân phúc và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành (chương 68-69). Các công nghị viên nghiêm chỉnh chống lại các sự quá khích, bằng cách trở lại nguồn giáo phụ; và đặt sự sùng kính cũng như giáo điều về Mẹ Maria trong mạch văn Kitô học và giáo hội học.
48. Chẳng bao lâu sau Công đồng, khi lòng sùng kính dành cho Ðức Mẹ bỗng dưng đi xuống mà không ai tiên liệu trước, đức giáo hoàng Phaolo VI Công bố tông huấn Marialis Cultus (1974) giúp mọi người không hiểu lầm các ý muốn của Công đồng và cũng để nâng cao lòng sùng kính dành cho Mẹ Maria cách thích hợp. Tông huấn này về vai trò Mẹ Maria trong sách cập nhật hóa nghi thức phụng vụ Roma cho thấy Mẹ Maria không bị "xuống cấp" qua các canh tân phụng vụ, nhưng nên áp dụng lòng sùng kính đó cách thích hợp, với mục đích hướng chiều về Chúa Kitô khi đọc kinh nguyện chung của giáo hội.
Ðức giáo hoàng cũng nhìn đến Mẹ Maria là "tấm gương của đời sống tinh thần mà giáo hội cần sống và và cử hành các nhiệm tích thần linh" (chương 16). Mẹ là khuôn mẫu cho toàn thể giáo hội, nhưng cũng là "thầy dậy đời sống tinh thần của mọi người Kitô hữu" (chương 21). Theo đức giáo hoàng Phaolo VI, sự canh tân chính đáng lòng sùng kính dành cho Mẹ Maria cần hoà nhập với giáo điều về Thiên Chúa, về Ðức Kitô và về giáo hội. Lòng sùng kính dành cho Mẹ Maria cần hòa hợp với Thánh Kinh và với phụng vụ của giáo hội; cần nhậy cảm với ưu tư của các Kitô hữu khác, và phải chuẩn y trọn vẹn nhân vị của người phụ nữ nơi đời sống công cộng cũng như đời sống riêng tư. Ðức giáo hoàng cảnh giác những sai lầm khi đề cao qúa đáng hoặc lãng quên lòng sùng kính này. Sau cùng, ngài khuyến khích đọc kinh truyền tin và lần hạt mân côi như cách sùng kính truyền thống xứng hợp với điều lệ mới.
Năm 2002, đức giáo hoàng Gioan Phaolo II tái xác định mục tiêu hướng chiều về Chúa Kitô qua kinh mân côi bằng đề nghị 5 chục kinh mầu nhiệm "Sự Sáng" dựa trên các biến cố phúc âm tường thuật sứ vụ công khai của Chúa Kitô giữa khoảng thời gian Người chịu nghi thức rửa và tử nạn. Kinh mân côi, đức giáo hoàng nói, dù tập trung vào vai trò của Mẹ Maria, trọng tâm vẫn là lời cầu nguyện hướng về Chúa Kitô (Rosarium Virginis Mariae, 1) (18).
49. Mẹ Maria có một vai trò nổi bật trong các nghi thức canh tân phụng vụ Anh giáo suốt thế kỷ 20. Trong hầu hết các sách kinh nguyện Anh giáo, tên Mẹ Maria được nhắc đi nhắc lại nơi kinh nguyện thánh thể. Hơn thế nữa, ngày 15 tháng 8 đã trở thành một lễ chính, được cử hành và phổ biến cách rộng rãi, chúc tụng Mẹ Maria qua bài đọc Thánh Kinh, nhập lễ và kinh tiền tụng riêng. Người ta cũng canh tân các lễ khác liên hệ với Mẹ Maria. Các lễ hội này xử dụng nhiều nguồn phụng vụ khác nhau. Nhìn đến các sách được chuẩn y và đem ra áp dụng theo nghi thức Anh giáo, sự phát triển này thực đáng giá.
50. Các sự phát triển trên cho thấy vào những thập niên vừa qua, sự tái đón nhận (rereception) vai trò của Mẹ Maria khi thờ phượng chung và tập thể đã diễn ra trong toàn giáo hội Anh giáo liên hiệp. Ðồng thời, trong Lumen Gentium (chương 8) và tông huấn Marialis Cultus, giáo hội Công giáo cũng cố gắng đặt niềm sùng kính Mẹ Maria trong văn mạch Thánh Kinh và truyền thống cổ truyền chung. Ðiều này tạo ra nơi giáo hội Công giáo một sự tái đón nhận những giáo huấn dành cho Mẹ Maria. Việc tái xét (revision) lịch và bài đọc dùng trong giáo hội, nhất là trong phụng vụ liên quan đến lễ kính dành cho Mẹ Maria, biểu lộ rõ ràng tiến trình tái đón nhận các chứng từ Thánh Kinh về vị thế của Mẹ trong đức tin và đời sống giáo hội. Các cuộc đối thoại đại kết đã góp phần vào tiến trình tái đón nhận này của hai giáo hội.
51. Thánh Kinh cùng dẫn đưa chúng ta chúc tụng và ngợi ca Mẹ Maria là tôi tớ Chúa, là Ðấng được chuẩn bị theo ơn quan phòng thánh thiêng làm Mẹ Chúa cứu thế của chúng ta. Lời đáp trả của Mẹ, khi thực thi chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, trong giây phút trọng đại thưa lời xin vâng của một tín hữu cho lời đáp trả xin nhận của Thiên Chúa. Mẹ đứng đó như khuôn mẫu thánh thiện, vâng phục và trung tín thay mặt cho mọi người Kitô hữu. Là người nhận Lời trong tim và trong thân xác, và sinh hạ Lời trong cuộc đời, Mẹ Maria đích thực thuộc về truyền thống ngôn sứ.
Chúng tôi đồng ý trong đức tin của chúng tôi rằng Mẹ Maria là Theotokos. Cả hai giáo hội chúng tôi là những người thừa kế của một truyền thống phong phú đã nhìn nhận Mẹ Maria luôn đồng trinh, và nhìn đến Mẹ như một Tân Evà và khuôn mẫu của giáo hội. Chúng tôi hiệp ý trong kinh nguyện và trong lời ca tụng Mẹ Maria, đấng muôn đời sẽ ngợi khen Mẹ diễm phúc. Chúng tôi cử hành các lễ nghi về Mẹ và vinh quang Mẹ trong ơn hiệp thông với các thánh. Chúng tôi đồng ý rằng Mẹ Maria và các thánh cầu nguyện cho toàn thể giáo hội (Xc. thêm chương D). Tóm lại, chúng tôi thấy Mẹ Maria liên kết đến mức không thể tách rời với đức Kitô và với giáo hội. Trong khi nghiên cứu rộng thêm về vai trò của Mẹ Maria, giờ đây chúng ta hãy cùng quy hướng về thần học của hy vọng và ân sủng.
C. Mẹ Maria trong tiến trình Ân sủng và Hy Vọng
52. Thông phần vào vinh quang Thiên Chúa qua trung gian người Con, trong quyền năng Chúa Thánh Thần, chính là niềm hy vọng Phúc âm (Xc. 2 Cor. 3: 18; 4: 4-6). Giáo hội vui mừng niềm hy vọng và sự quan phòng này qua Chúa Thánh linh, đấng "bảo toàn" các ân sủng của chúng ta trong Chúa Kitô (Ephêsô 1: 14; 2 Cor. 5: 5). Nhất là với Phaolô, khi ngài nhấn mạnh, điều khiến chúng ta trọn vẹn là người, phải hiểu cách chính đáng trong ánh sáng, mà nhờ đó chúng ta trở nên trong Ðức Kitô, "Adong cuối", chứ không phải là người mà chúng ta đã trở nên trong Adong cũ (1Cor. 15: 42- 49; Xc. Rom 5: 12-21).
Quan điểm cánh chung, đang khi nhìn đời sống Kitô theo văn mạch viễn kiến hướng về một Ðức Kitô vinh quang, dẫn đưa người tín hữu khỏi vòng tội lỗi ràng buộc (Do Thái 12: 1-2), và thông phần vào sự trong sạch và tình yêu của Người. Quan điểm này hoàn thành nhờ hiến tế cứu chuộc của Chúa (1 Gioan 3: 3; 4: 10). Như vậy, chúng ta nhìn đến nhiệm cuộc ân sủng một cách trọn vẹn trong Ðức Kitô "trở ngược" lại lịch sử, thay vì "tiến tới", khi con người sa ngã hướng đến tương lai nơi Ðức Kitô. Quan điểm này cho chúng ta một ánh sáng mới, mà nhờ đó chúng ta cùng nghiên cứu vai trò của Mẹ Maria.
53. Hy vọng của giáo hội dựa trên chứng tá giáo hội lãnh nhận vinh quang hiện nay của Chúa Kitô. Giáo hội tuyên xưng Chúa Kitô không chỉ sống lại với thân xác phục sinh từ mộ, mà còn vinh quang bên hữu của Chúa Cha, chia sẻ vinh quang của Cha (1 Tim 3: 16; 1 Phêrô 1: 21). Khi người tín hữu hiệp nhất với nhau trong Ðức Kitô qua bí tích rửa tội và qua việc chia sẻ các đau khổ của Chúa Kitô (Roma 6: 1-6), thì họ thông phần qua Chúa Thánh linh trong vinh quang của Ngài, và họ được nâng lên với Ngài trong niềm mong ước mặc khải cuối cùng (Xc. Roma 8: 17; Ephêsô 2: 6; Colôsê 3: 1)
Trong định mệnh của giáo hội và của các thành viên, các "thánh" được chọn trong Ðức Kitô "trước khi thế giới được tạo thành" để sống " thánh thiện và không tì vết," và để chia sẻ vinh quang Ðức Kitô (Êphêsô 1: 3-5; 5: 27). Thánh Phaolô nói đến một tương lai hồi tố khi ngài viết: "Những ai do Chúa tiền định, Ngài đã gọi; những ai Ngài gọi, Ngài công chính hóa, và những ai Ngài công chính hóa, Ngài cho họ vinh quang" (Roma 8: 30). Trong những chương kế tiếp của thư Roma, Phaolô giải thích hình ảnh đa diện trong chương trình tuyển chọn của Chúa trong Ðức Kitô, và vẫn tập trung cái nhìn của mình về mục đích: bao gồm cả những người ngoại giáo, sao cho mọi người Israel lãnh nhận cứu rỗi" (Rom 11: 26)
Mẹ Maria trong nhiệm cuộc ân sủng
54. Trong khung cảnh Thánh Kinh, chúng ta suy xét vai trò đặc biệt của đức trinh nữ Maria trong nhiệm cuộc ân sủng với vị thế người cưu mang Ðức Kitô, người Chúa tuyển chọn. Lời Chúa, khi sứ thần Gabriel chào Mẹ, đã gọi Mẹ là đấng "ân phúc". Sứ thần mời gọi Mẹ đáp trả tiếng Chúa với đức tin và với tự do (Lu-ca 1: 28, 38, 45). Thánh Thần hoạt động trong Mẹ khi Mẹ mang thai đấng cứu thế, và đấng "có phúc giữa các người phụ nữ" đã có ơn thần hứng để ca tụng rằng "muôn đời sẽ ngợi khen tôi có phúc" (Lu-ca 1: 42, 48).
Xét theo phương diện cánh chung, Mẹ Maria mang thân phận của người "Israel do Chúa tuyển chọn" Phaolô đã nói: vinh quang, công chính, được mời gọi, được tiền định. Ðây là tiến trình ân sủng và hy vọng mà chúng ta thấy nơi cuộc đời của Mẹ Maria, đấng đóng một vị thế đặc biệt trong định mệnh của giáo hội, như người mang trong chính thân xác mình "Thiên Chúa vinh quang." Maria được tuyển chọn, được đánh dấu ngay từ ban đầu như người Chúa chọn, Chúa mời và ban ơn Chúa Thánh Thần vì công việc Mẹ phải làm.
55. Thánh Kinh kể cho chúng ta nghe câu truyện các phụ nữ hiếm muộn sinh con theo hồng ân Chúa - Rachel, vợ ông Manoah, Hannah (Sáng thế ký 30: 1-24; Quan án 13; 1 Samuel 1) và những người mang thai muộn - Sarah (Sáng thế ký 18: 9-15; 21: 1-7) nhất là câu truyện của người bà con Mẹ Maria, Isave (Lu-ca 1: 7, 24). Những phụ nữ này làm vai trò của Mẹ Maria nổi bật thêm dù Mẹ Maria không phải là người hiếm muộn, cũng không phải mang thai muộn, nhưng là cô trinh nữ có con: Chúa Thánh Thần bao trùm trên Mẹ trong chính cung lòng khi Mẹ thụ thai Chúa Kitô.
Thánh Kinh cũng trình bầy Chúa lo lắng cho con người trước khi họ chào đời (Thánh vịnh 139: 13-18), và kể lại những việc Chúa làm, khi ban ân sủng cho một số người đặc biệt ngay cả trước khi họ hoài thai (Jer. 1: 5; Lu-ca 1: 15; Gal 1: 15). Với giáo hội cổ thời, Mẹ Maria chấp nhận thiên ý qua lời sứ thần chào, làm nổi bật hơn lời đoan quyết của sứ thần Gabriel gọi Mẹ là "đấng đầy ân phúc." Chúng ta thấy rõ ràng Chúa tác động nơi Mẹ ngay từ giai đoạn đầu tiên, chuẩn bị cho Mẹ ơn gọi đặc biệt cưu mang một Adong mới, mà chính trong Adong mới này, mọi sự trên trời và dưới đất quy tụ lại (Xc. Colôsê, 1: 16-17). Nói về Mẹ Maria, dù như cá nhân hoặc vai trò đại diện, chúng ta có thể nói Mẹ là "người làm công cho Chúa, được Chúa tạo thành trong Ðức Kitô để hoàn thành những việc tốt lành mà Chúa đã chuẩn bị cho tự ngàn xưa (Êphêsô. 2: 10).
56. Maria, trinh nữ tinh tuyền, cưu mang Chúa Trời trong lòng. Sự giao tiếp sâu thẳm của thân xác Mẹ với con Mẹ thành một. Sự hiệp nhất thành một này vẫn tiếp tục liên kết Mẹ với Chúa Kitô trong vai trò Mẹ là tín hữu. Mẹ theo Chúa như một tín hữu và như người Mẹ, tham dự vào đời sống tự hiến vinh quang của Chúa (Lu-ca 2: 35). Tất cả các biến cố trên thật rõ ràng như chúng ta thấy trong Thánh Kinh. Không có chứng cớ trực tiếp nào trong Thánh Kinh nói đến giây phút cuối đời của Mẹ. Tuy nhiên, một vài đoạn văn kể lại cho chúng ta cuộc đời của những người theo Chúa cách trung thành, được hưởng nhan thánh Chúa. Hơn thế nữa, các đoạn văn còn hé lộ hoặc biểu tượng phần nào, mà nhờ đó chúng ta thấy ánh sáng mầu nhiệm Mẹ Maria trong vinh hiển.
Thí dụ, đoạn Thánh Kinh nói về thời cánh chung nơi trình thuật Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên (TÐCV 7: 54- 60). Vào chính lúc chết, giống như Chúa của chúng ta, ngài đã thấy "vinh quang Thiên Chúa và Chúa Giêsu" "Con Người" không ngồi trên ghế phán xử tội nhân, nhưng "đứng bên hữu Thiên Chúa" chào đón người tôi trung. Tương tự như vậy, người ăn trộm thống hối kêu cầu Chúa khi ở trên thập giá đã được Chúa hứa đặc biệt cho cùng sống lại với Người trên thiên đàng (Lu-ca 23: 43). Tôi trung của Chúa Elijah lên trời trên xe gió (2 Các Vua 2:11). Câu truyện về tiên tri Enoch kể rằng tiên tri bị Chúa thử thách và ngài đã làm hài lòng Thiên Chúa, "vì vậy ngài được đưa lên trời mà không phải trông thấy cái chết; người ta đã không tìm thấy ngài vì Chúa đã đưa ngài về (Do Thái 11: 5; Xc. Sáng thế ký 5: 24).
Trong các văn mạch về cánh chung như vậy, Mẹ Maria, người môn đệ trung tín của Chúa, luôn kết hợp trọn vẹn với Chúa trong Ðức Kitô. Theo lối này, Mẹ là dấu chỉ hy vọng của toàn thể nhân loại.
57. Tiến trình hy vọng và ân sủng, tiên báo nơi Mẹ Maria, sẽ nên trọn vẹn trong sự sáng tạo mới nơi Ðức Kitô, khi tất cả tạo vật lãnh ơn cứu độ sẽ cùng tham dự vinh quang hoàn toàn của Thiên Chúa (Xc. 2Cor: 3: 18). Kinh nghiệm người Kitô hữu hiệp thông với Chúa trong đời sống hiện tại là dấu chỉ và là sự nếm thử trước ân sủng và vinh quang, niềm hy vọng toàn thể tạo vật cùng chia sẻ (Roma 8: 18-23). Mỗi cá nhân tín hữu và mỗi giáo hội tìm thấy sự cảm nghiệm này trong Giêrusalem mới, hiền thê Chúa Kitô (Xc. Khải huyền 21: 2; Ephêsô 5: 27). Khi các Kitô hữu từ Ðông sang Tây, qua muôn thế hệ suy niệm công việc của Chúa nơi Mẹ Maria, họ đã thấy một niềm tin (Xc. Quà tặng và Quyền Bính 29) tương hợp với với điều mà Thiên Chúa đã đưa Mẹ lại với Ngài: Trong Ðức Kitô. Mẹ là tạo vật mới trong đấng mà ''tạo vật cũ đã qua đi và tạo vật mới đang đến'' (2Cor. 5: 17). Nhìn đến Mẹ Maria theo khía cạnh cánh chung, Mẹ Maria đóng vai trò biểu tượng (type) của hội thánh, và cũng là người môn đệ với chỗ đứng đặc biệt trong nhiệm cuộc cứu độ.
Ðịnh nghĩa của các đức giáo hoàng
58. Cho đến bây giờ, chúng ta đã phác họa ra đức tin chung của chúng ta liên quan đến chỗ đứng của Mẹ Maria trong mục đích thần linh. Tuy nhiên, đạo Công giáo Roma phải tuân theo các giáo huấn mà đức giáo hoàng Pio XII đã định nghĩa vào năm 1950: "Mẹ vô nhiễm nguyên tội của Thiên Chúa, đấng trọn đời đồng trinh Maria, sau khi làm trọn bổn phận cuộc đời này, thì linh hồn và xác được đưa về trời trong vinh quang." Nên lưu ý rằng tín điều này không nói vị thế đặc biệt nào Mẹ Maria qua đời, (20) cũng như không dùng từ ngữ đặc biệt nào nói về Mẹ, như Mẹ đã chết và sống lại, nhưng cử hành việc này như tác động của Thiên Chúa trong Mẹ.
Như vậy, sau khi hiểu biết vị thế của Mẹ trong nhiệm cuộc hy vọng và ân sủng, chúng tôi cùng xác nhận, Thiên Chúa đã đưa Mẹ Maria, với sự viên mãn trọn vẹn con người Mẹ vào vinh quang Thiên Chúa, tương hợp với những dậy bảo của Thánh Kinh, và như vậy điều này có thể hiểu trong ánh sáng Thánh Kinh. Người Công giáo Roma có thể nhìn nhận lời giáo huấn này về Mẹ Maria trong tín điều. Khi thấy thân phận của mọi người được cứu chuộc là vinh quang của họ trong Ðức Kitô, thì Mẹ Maria, đấng Theotokos, đóng vai trò nổi bật trong cộng đoàn các thánh, và Mẹ là biểu tượng thân phận của giáo hội.
59. Người Công giáo Roma cũng buộc phải tin rằng "đức trinh nữ rất thánh Maria, ngay từ giây phút đầu tiên hoài thai, nhờ ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng và công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đấng cứu chuộc nhân loại, đã được miễn trừ khỏi vết tích của tội nguyên tổ (tín điều về Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội do đức giáo hoàng Piô công bố năm 1854) (21). Ðịnh nghĩa này dậy rằng Mẹ Maria, giống như mọi người khác, cần Chúa Kitô là đấng cứu chuộc và cứu thế của Mẹ (Xc. Lumen Gentium, 53; giáo lý Công giáo, 491).
Ðiểm tiêu cực khi nhìn nhận Mẹ Maria vô tội có thể dẫn đưa đến nguy hiểm làm hoen mờ sự trọn vẹn ơn cứu chuộc của Chúa Kitô. Cần xác định cho rõ, Mẹ Maria không phải thiếu vấn đề mà các người khác "có", đó là tội, nhưng vinh quang Thiên Chúa bao phủ cuộc đời Mẹ ngay từ thuở ban đầu. (22) Sự thánh thiện, chung cuộc của chúng ta trong Ðức Kitô (Xc. 1Gioan 3: 2-3,) được nhận ra trong Mẹ Maria, nhờ ân sủng công nghiệp vô biên của Ðức Kitô. Mẹ Maria là đại biểu tượng (prototype) của niềm hy vọng ân sủng cho toàn thể nhân loại như một khối chung.
Theo tân ước "ân phúc" liên hệ với ý tưởng tự do khỏi tội nhờ máu Ðức Kitô (Ephêsô 1: 6-7). Thánh Kinh nhắc nhở kết quả công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô ngay cả cho những người sống trước thời đại của Người (Xc. 1 Phêrô 3: 19; Gioan 8: 56; 1 Cor 10: 4). Lại một lần nữa, nơi đây, quan niệm cánh chung soi sáng chúng ta hiểu con người và ơn gọi của Mẹ Maria.
Nhìn đến ơn gọi của Mẹ là Mẹ Ðấng Thánh (Lu-ca 1: 35), chúng ta có thể xác quyết rằng ơn cứu chuộc của Ðức Kitô đã "hồi tố" với Mẹ Maria, đến tận cùng sâu thẳm con người Mẹ, ngay từ giây phút đầu tiên trong cuộc đời của Mẹ. Ðiều này không ngược với với giáo huấn của Thánh Kinh, và chỉ được hiểu trong ánh sáng Thánh Kinh. Người Công giáo Roma cần nhận ra điều này qua lời xác định của tín điều - cách rõ ràng hơn -, Mẹ được "gìn giữ khỏi mọi tì vết của tội nguyên tổ'' và ''ngay từ giây phút đầu tiên lúc Mẹ mới hoài thai.'' (23).
60. Chúng tôi cùng đồng ý rằng giáo huấn về Mẹ Maria qua hai định nghĩa vào năm 1854 và 1950, được hiểu trong tiến trình nhiệm cuộc ân sủng và hy vọng của Thánh Kinh. Những định nghĩa đó tương hợp với lời dậy dỗ trong Thánh Kinh và theo truyền thống chung, cổ thời. Tuy nhiên, giáo hội Công giáo Roma, khi hiểu hai định nghĩa này cũng như bất cứ giáo huấn nào mang tích cách tín điều, ngụ ý rằng những giáo huấn trên được quả quyết như "Thiên Chúa mặc khải," và vì vậy, mọi giáo dân cần phải tin tưởng "kiên quyết và vững chắc" (de fide). Vấn đề với người Anh giáo đã được thảo luận ở chương VI. (Chương này nói như sau: Thánh Kinh chứa đựng tất cả những gì cần thiết cho ơn cứu rỗi: vì vậy bất cứ những gì không được đọc, hoặc vì thế, không được chứng minh, thì không đòi buộc và không nên đòi buộc mọi người phải tin hoặc coi đó như là điều cần thiết cho việc cứu rỗi.)
Chúng tôi đồng ý rằng không buộc phải tin là tín điều trừ khi do Thiên Chúa mặc khải. Tuy nhiên, vấn nạn với người Anh giáo là, họ có phải tin những tín điều liên quan đến Mẹ Maria trên là do Thiên Chúa mặc khải, như vấn đề của đức tin?
61. Hoàn cảnh và lời tuyên tín vào năm 1854 và 1950 tạo ra nhiều vấn đề không chỉ cho người Anh giáo mà còn cho tất cả Kitô hữu khác. Ngôn từ và cách diễn đạt những luận cứ tín điều này nằm trong cách suy tư của người thời đó. Một cách cụ thể, câu Thiên Chúa mặc khải (1854) và mặc khải cách thần linh (1950) dùng trong các tín điều, phản ảnh một thần học mặc khải đã ngự trị lâu đời trong giáo hội Công giáo Roma vào thời gian mà những định nghĩa này hình thành, và vào giai đoạn mà quyền giáo hoàng hiến chế Dei Filius của Công đồng Vatican I diễn tả. Cần hiểu những định nghĩa này trong ánh sáng Công đồng Vatican II với hiến chế Dei Verbum tái diễn đạt, nhất là khi nhìn đến vai trò quan yếu của Thánh Kinh khi đón nhận và thông truyền mặc khải
Khi giáo hội công giáo Roma quả quyết rằng sự thật "do Thiên Chúa mặc khải," không nhằm nói đến mặc khải mới. Hơn nữa, những định nghĩa trên nhắm để làm chứng cho những gì đã mặc khải ngay từ thuở ban đầu. Thánh Kinh làm chứng cho các mặc khải này (Xc. Quà tặng và Quyền Bính, 19). Cộng đoàn tín hữu đón nhận mặc khải đó, thông truyền theo thời gian và không gian qua Thánh Kinh và qua việc rao giảng, phụng vụ, tu đức, đời sống và giáo huấn của giáo hội dựa trên Thánh Kinh.
Trong "Quà tặng của Quyền bính" uỷ ban điều hành cố gắng khai mở phương cách các lời giáo huấn dựa trên năng quyền sẽ dùng. Ðiểm quan yếu là những lời giáo huấn dựa trên năng quyền cần am hợp với Thánh Kinh, và Thánh Kinh luôn là nỗi ưu tư căn bản cho người Anh giáo cũng như Công giáo Roma.
62. Người Anh giáo cũng đặt vấn đề phải chăng người tín hữu coi những tín điều này như vấn đề thuộc đức tin, khi vị giám mục Roma tuyên tín ngoài Công đồng (Authority II, 30). Ðể trả lời, người Công giáo Roma đã giải thích sensus fidelium, truyền thống phụng vụ tại các giáo hội địa phương và sự ủng hộ nồng nhiệt của các giám mục Công giáo Roma (Xc. Quà tặng và Quyền Bính, 29-30): Những định nghĩa trên là những phần mà qua đó tín điều được nhìn nhận thuộc về đức tin của giáo hội, và vì vậy, cần tuyên xưng (Xc. Quà tặng và Quyền Bính, 47)
Với người Công giáo Roma, tuyên tín các định nghĩa đó thuộc năng quyền của giám mục thành Roma. Năng quyền cho phép ngài, dưới các điều kiện hạn chế, tuyên tín (Xc. Pastor Aeternus ([1870]); DS 3069-3070). Những định nghĩa năm 1854 và 1950 không nhằm trả lời các cuộc tranh cãi, nhưng để nói lên tiếng nói đa số đồng ý chung của các tín hữu cùng hiệp thông với vị giám mục Roma. Công đồng Vatican II đã tái xác nhận những tuyên tín này.
Với người Anh giáo, Công đồng đại kết thoả thuận, giáo huấn theo Thánh Kinh, cần biểu lộ cách chính xác, nghĩa là, phải hội đủ những điều kiện cần thiết cho việc giáo huấn được gọi là de fide. Theo trường hợp đó, như tuyên tín về Theotokos, cả hai giáo hội Anh giáo và Công giáo Roma cùng đồng ý, chứng cớ cần được mọi người tín hữu tin tưởng cách chắc chắn và bền vững. (Xc. 1Gioan 1: 1-3)
63. Người Anh giáo đặt câu hỏi, trong tương lai, nếu có sự hiệp nhất giữa hai giáo hội, phải chăng họ sẽ buộc chấp nhận tín điều năm 1854 và 1950. Người Công giáo Roma thấy khó có thể hình dung ra sự hiệp nhất hai giáo hội khi chấp nhận một vài tín điều, rồi lại bỏ quên một vài tín điều khác. Lúc bàn thảo về vấn đề này, chúng tôi lưu ý "một trong những hậu quả khiến chúng ta chia cách, là vì cả hai nhóm Anh giáo cũng như Công giáo Roma có khuynh hướng nhấn mạnh quá đáng các tín điều Mẹ Maria như tín điều căn bản cốt yếu của đức tin Kitô giáo (Authority II, 30).
Hai giáo hội Công giáo Rô ma và Anh giáo đồng ý, các tín điều Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời cũng như vô nhiễm nguyên tội, phải hiểu trong ánh sáng của chân lý căn bản hơn về căn tính của Mẹ như Theotokos, tức là đấng phải tùy thuộc vào sự nhập thể của Thiên Chúa. Chúng tôi nhận thấy, theo Công đồng Vatican II và giáo huấn của những vị giáo hoàng gần đây, chiều hướng hiểu biết Kitô giáo và giáo hội học về các tín điều trong giáo hội liên quan đến Mẹ Maria đã được tái đón nhận trong giáo hội công giáo Roma.
Giờ đây, chúng tôi gợi ý, khi chấp nhận viễn kiến cánh chung, chúng ta có thể sẽ đào sâu sự hiểu biết chung về vai trò Mẹ Maria trong nhiệm cuộc ân sủng và trong truyền thống giáo hội liên quan đến Mẹ Maria, là truyền thống và ân sủng mà cả hai giáo hội chúng ta cùng đón nhận. Chúng tôi hy vọng rằng giáo hội Công giáo Roma và Anh giáo sẽ nhìn ra đức tin chung, khi cùng đồng ý những điều liên quan đến Mẹ Maria mà chúng tôi đang đề nghị. Sự tái đón nhận này có thể mang ý nghĩa, - giáo huấn, hoặc ý nghĩa sùng mộ dành cho Mẹ Maria, lòng sùng mộ đang được cử hành trong các cộng đoàn của chúng ta, và kể cả các sự khác biệt -. Những giáo huấn này được coi như phương cách biểu lộ đức tin chính đáng Kitô giáo. Bất cứ sự tái đón nhận nào như vậy, cần diễn ra trong khung cảnh tái đón nhận chung, dựa trên năng quyền giáo huấn có uy thế trong giáo hội như đã nhắc nhở trong "Quà tặng và Quyền Bính."
D. Mẹ Maria trong đời sống giáo hội
64. "Tất cả những lời hứa của Thiên Chúa hiện hữu qua lời Xin Nhận của Ðức Kitô: vì thế chúng ta nói lời Amen trong Người vì vinh quang Thiên Chúa." (2Cor. 1: 20). Những xin nhận của Thiên Chúa trong Ðức Kitô mang hình thái đặc biệt và đòi hỏi như khi truyền tin cho Mẹ Maria. Huyền nhiệm thẳm sâu của "Ðức Kitô ở trong anh em, niềm hy vọng đạt tới vinh quang" (Colôsê. 1: 27) mang một ý nghĩa đặc biệt nơi Mẹ. Mầu nhiệm đó giúp Mẹ nói lời xin vâng, mà qua ân sủng thánh linh bao phủ, lời xin nhận của Chúa với tạo vật mới, bắt đầu. Như chúng ta thấy, lời xin vâng của Mẹ Maria thật đặc biệt khi đón nhận Lời Chúa, khi ở dưới chân thánh giá và khi Thánh linh hướng dẫn Mẹ.
Thánh Kinh diễn tả Mẹ Maria tăng trưởng trong liên hệ của Mẹ với Chúa Kitô: Ðức Kitô cùng chia sẻ gia đình nhân loại với Mẹ (Lu-ca 2: 39), cùng thăng hoa với Mẹ khi Mẹ chia sẻ gia đình giáo hội hướng về chung thẩm, một gia đình mà Chúa Thánh Thần tuôn tràn ơn phúc (TÐCV 1: 14; 2: 1-4). Lời Amen của Mẹ Maria với lời Xin Nhận của Thiên Chúa trong Ðức Kitô với Mẹ, đã trở thành một và thành khuôn mẫu cho tất cả các môn đệ cũng như cho đời sống giáo hội.
65. Khi nghiên cứu phương cách mà gương mẫu Mẹ Maria, nhờ ân sủng Thiên Chúa, đã hiển hiện trong đời sống sùng mộ của truyền thống chúng ta, thì chúng tôi cũng nhận ra một số khác biệt. Vào thời điểm cả hai truyền thống nhìn nhận vai trò đặc biệt của Mẹ nơi cộng đoàn các thánh, chúng tôi nhận ra mình đã nhấn mạnh những điểm khác nhau, khi chúng ta cảm nghiệm sứ vụ của Mẹ.
Người Anh giáo có khuynh hướng bắt đầu suy tư từ thí dụ Thánh Kinh về Mẹ Maria như nguồn cảm hứng và khuôn mẫu cho môn đệ tính; người Công giáo Roma chú tâm sứ vụ của Mẹ trong nhiệm cuộc ân sủng và hiệp thông với các thánh. Mẹ Maria chỉ dẫn cho nhân loại thấy Chúa, dẫn lối mọi người đến với Chúa và giúp họ chia sẻ đời sống của Người.
Không phương cách chung nào trong hai quan niệm trên hoàn tất niềm mong ước của mình, diễn tả nổi sự phong phú và đa dạng truyền thống của mình. Vào thế kỷ XX, người ta trông thấy một phát triển đặc biệt là, nhiều người Anh giáo bị thu hút vào các phong trào sùng mộ Mẹ Maria, còn người Công giáo Roma thì đi tìm nguồn gốc Thánh Kinh diễn đạt lòng sùng mộ này. Chúng tôi cùng đồng ý Mẹ Maria là khuôn mẫu nhân bản trọn vẹn của đời sống ân sủng. Chúng ta cần suy tư các bài học về cuộc đời của Mẹ mà Thánh Kinh đã ghi nhận. Chúng ta cùng kết hợp với Mẹ không phải như người đã chết, nhưng sống thực sự trong Ðức Kitô. Ðể đạt đến ý hướng đó, chúng ta cùng đồng hành với nhau như lữ khách hiệp nhất với Maria, người môn đệ nổi bật của Chúa Kitô, và với mọi người đang cùng tham dự vào thế giới của tạo vật mới, một thế giới khuyến khích chúng ta trung tín với ơn gọi của mình (Xc. 2 Cor. 5: 17-19).
66. Nhận ra vai trò đặc biệt của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ, người Kitô hữu đã dành cho Mẹ một vai trò quan trọng nơi các kinh nguyện phụng vụ và cầu nguyện riêng, đang khi họ ca tụng Chúa vì các việc Ngài làm trong và qua Mẹ. Khi hát bài ca Magnificat, họ ca tụng Chúa với Mẹ. Trong thánh thể họ cầu nguyện với Mẹ cũng như họ cầu nguyện cùng với dân Chúa, đang khi hòa nhập lời cầu nguyện của họ với sự hiệp thông chung cùng các thánh. Họ nhận ra vị thế của Mẹ trong "lời cầu nguyện của các thánh" khi dâng lên trước ngai tòa Chúa trong phụng vụ (Mặc khải. 8: 3-4). Tất cả những phương cách này bao gồm Mẹ Maria trong lời ca tụng và kinh nguyện thuộc về kho tàng chung của chúng ta, cũng như chúng ta tri ân vị thế riêng biệt của Mẹ là đấng Theotokos, vị thế khiến cho Mẹ có một vai trò đặc biệt giữa cộng đoàn các thánh.
Khẩn cầu và cầu bầu thay cho chúng ta trong sự hiệp thông với các thánh
67. Thói quen của nhiều tín hữu xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa thay cho họ ngày càng tăng triển nhanh chóng tiếp theo Công đồng Ephêsô tuyên tín rằng Mẹ là đấng Theotokos. Hình thức phổ biến nhất của lời xin cầu bầu đó là kinh Kính mừng. Lời kinh này khai mở thêm lời chào của sứ thần Gabriel và của thánh Isave với Mẹ (Lu-ca 1: 28, 42). Từ thế kỷ thứ 5, lời kinh đã rộng rãi phổ biến, và không có câu cầu nguyện kết thúc cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử, tức là đoạn kinh được thêm vào khoảng thế kỷ 15, và được ghi nhận trong sách kinh nguyện Roma do đức giáo hoàng Pius V năm 1568.
Các nhà Cải cách Anh giáo phê bình lời cầu nguyện kết thúc này cũng như các hình thức cầu nguyện tương tự. Họ cho rằng lời kinh như thế đe dọa vai trò trung gian duy nhất của Chúa Giêsu Kitô. Ðối diện với lòng sùng kính quá đáng phát nguồn từ những ca tụng quá đáng vai trò và quyền năng Mẹ Maria bên cạnh vai trò Chúa Kitô, những người Cải cách bác bỏ "tín điều quá Roma này... khi kêu cầu các thánh" mà "không có nền tảng nào dựa trên Thánh Kinh. Như vậy làm cho Ngôi Lời Chúa bị xúc phạm (số XXII).
Công đồng Trent quả quyết, đi tìm sự trợ giúp từ các thánh hầu lãnh nhận hồng ân của Chúa là "tốt và hữu ích": những lời cầu khẩn trên được dâng lên qua người Con của Chúa Cha là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đấng cứu thế và cứu chuộc duy nhất của chúng ta. (DS 1821). Công đồng Vatican II chuẩn y thói quen truyền thống các tín hữu xin Mẹ Maria cầu nguyện cho họ, đang khi nhấn mạnh "vai trò làm Mẹ của Ðức Maria cho nhân loại không ngăn trở hoặc làm giảm vai trò trung gian duy nhất của Ðức Kitô, nhưng càng biểu lộ quyền năng của Chúa hơn. Vai trò này không gây trở ngại liên hệ trực tiếp của chúng ta với Chúa, ngược lại củng cố hơn (Lumen Gentium, 60).
Vì vậy, giáo hội Công giáo Roma tiếp tục cổ võ lòng sùng mộ dành cho Mẹ Maria trong khi điều chỉnh những phong trào, hoặc quá khích hoặc giảm thiểu vai trò của Mẹ Maria (Marialis Cultus, 31). Nhận biết bối cảnh này, chúng ta đi tìm một căn bản thần học, hầu rút ra kết luận tương hợp cho đời sống cầu nguyện, khi kết hợp với Chúa Kitô và với các thánh của Người.
68. Thánh Kinh dậy "chỉ có một trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Ðức Chúa Giêsu, là con người đã chấp nhận làm của lễ đền tội cho toàn nhân loại. (1Tim 2: 5,6). Như đã đề cập đến trước đây, dựa trên giáo huấn đó, chúng tôi bác bỏ tất cả mọi lời cắt nghĩa nào về vai trò Mẹ Maria cản trở lời quả quyết này. (Quà Tặng và Quyền Bính II, 30)
Tuy nhiên, chính xác khi nói, tất cả các sứ vụ của giáo hội, nhất là lời Chúa và bí tích, cũng là trung gian ân sủng của Chúa qua con người. Những sứ vụ đó không tranh dành vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô, nhưng phục vụ và có nguồn gốc trong vai trò trung gian này. Cách đặc biệt, lời cầu nguyện của giáo hội đã không đứng biệt lập hoặc thay thế lời khẩn cầu của Chúa Kitô, nhưng nhờ Người, đấng là trung gian và Vị cầu bầu của chúng ta (Xc. Rom. 8: 34, Do Thái 7: 25, 12: 24, 1 Jn 2:1). Cũng nên ghi nhận nơi đây việc có thể có người cầu bầu khác, nhờ ơn tác động của Chúa Thánh linh, như lời Ðức Kitô đã hứa (Xc. Gioan 14: 16-17). Vì vậy, khi nhờ anh chị em của chúng ta trên trần thế và trên thiên đàng cầu nguyện cho chúng ta, thì không có nghĩa rằng chúng ta muốn tranh đua với công việc trung gian của Ðức Kitô, nhưng đó là phương cách mà nhờ đó và qua đó Chúa Thánh linh biểu lộ quyền năng của Ngài.
69. Khi người Kitô hữu cầu nguyện, chúng ta quy hướng lên cùng Chúa là Cha trên trời, trong và qua Chúa Giêsu Kitô, với ơn tác động của Chúa Thánh Thần. Những lời cầu nguyện như vậy nằm trong sự hiệp thông như ơn lành và bản thể của chính Chúa. Nơi đời sống cầu nguyện, chúng ta nhắc đến tên Ðức Kitô trong niềm hiệp thông với toàn thể giáo hội, cộng thêm vào đó là lời cầu nguyện của các anh chị em chúng ta mọi nơi và mọi lúc.
Như ARCIC đã đề cập đến trước đây, "cuộc hành trình đức tin của người tín hữu cùng chia sẻ các nâng đỡ hỗ tương của dân Chúa. Trong Ðức Kitô, tất cả mọi tín hữu, còn sống cũng như đã qua đời, cùng ràng buộc chung trong tình hiệp thông cầu nguyện" (Salvation and the Church, 1987: 22).
Nhờ kinh nghiệm hiệp thông cầu nguyện, các tín hữu nhận ra mối tương giao liên tục của họ với anh chị em "đã ngủ yên." Họ là "những áng mây nhân chứng lớn lao" đang ở chung quanh chúng ta khi chúng ta hành trình trong đức tin. Với một số người, niềm cảm nghiệm này cho thấy, bằng hữu của họ đang hiện diện; với người khác, điều này có nghĩa là, suy niệm về ý nghĩa đời sống cùng với những người đã ra đi trước họ trong đức tin. Những cảm nghiệm đó khẳng định sự hiệp nhất của chúng ta với các Kitô hữu trong Ðức Kitô mọi nơi, mọi lúc, chứ không phải chỉ với người phụ nữ, mà qua bà, Người đã trở nên "giống chúng ta trong mọi sự chỉ trừ tội lỗi" (Do Thái 4: 15).
70. Thánh Kinh mời gọi các Kitô hữu hãy yêu cầu anh chị em cầu nguyện cho mình trong và qua Ðức Kitô (Xc. Jashua. 5: 13-15). Những người giờ đây "với Ðức Kitô" không còn bị ràng buộc vì tội lỗi, chia sẻ lời cầu nguyện, và chúc tụng không ngừng, là đặc tính của đời sống trên thiên đàng (Xc. Khải huyền 5: 9-14; 7: 9-12; 8: 3-4).
Dưới ánh sáng của chứng tá này, nhiều Kitô hữu đã tìm thấy, khi xin các thành viên của cộng đoàn các thánh cầu nguyện cho họ, thì chính đáng và tốt đẹp. Các vị là những người đã sống cuộc đời thánh thiện (Xc. Jashua 5: 16-18). Theo ý nghĩa này, chúng tôi đồng ý, khi nói các thánh cầu nguyện cho chúng ta, không phải là việc làm ngoài Thánh Kinh, mặc dù Thánh Kinh không trực tiếp giáo huấn về điều này như điều cần phải có trong cuộc đời của Ðức Kitô. Hơn thế nữa, chúng tôi đồng ý, phương cách xin cầu nguyện như vậy không cản trở các liên hệ trực tiếp của người tín hữu với Chúa là Cha trên trời, đấng yêu thương ban cho con cái mình các ân sủng tốt đẹp (Mat-thêu. 7: 11).
Trong Thánh Thần và qua Ðức Kitô, khi người tín hữu dâng lời cầu nguyện lên Chúa, họ còn được trợ giúp nhờ lời cầu nguyện của các tín hữu khác, nhất là của những người đang thực sự sống trong Ðức Kitô và đã ra khỏi vòng kiềm toả của tội lỗi. Cần lưu ý, qua các hình thức phụng vụ hướng về Chúa: người tín hữu không hướng lời cầu nguyện "lên" các thánh, nhưng nhờ các Ngài "cầu cho chúng con." Cũng nên lưu ý thêm, trong lời cầu nguyện này hoặc trong các lời cầu tương tự như vậy, bất cứ lời cầu khẩn nào làm lu mờ nhiệm cuộc ân sủng và hy vọng của ba ngôi Thiên Chúa, và không am hợp với Thánh Kinh cũng như với truyền thống chung cổ thời, cần bị bác bỏ.
Sứ vụ đặc thù của Mẹ Maria
71. Giữa các vị thánh, Mẹ Maria đóng vai trò Theotokos: Cùng sống với Ðức Kitô, Mẹ hiệp nhất với người con mà Mẹ cưu mang. Mẹ là đấng Thiên Chúa rất yêu thích khi hiệp thông trong ân sủng và hy vọng. Mẹ là điển hình của một nhân loại được cứu chuộc, là biểu tượng của hội thánh. Chính nhờ vậy, Mẹ đã thực hành một sứ vụ đặc thù khi trợ giúp tha nhân, nhờ lời cầu nguyện năng động của Mẹ. Nhiều Kitô hữu khi đọc trình thuật tiệc cưới Cana, vẫn còn nghe thấy lời Mẹ nhắn nhủ: "Hãy làm những gì Người bảo các ông làm." Các tín hữu tin tưởng Mẹ đã khiến con Mẹ lưu ý đến nhu cầu của người tổ chức tiệc cưới: "Họ hết rượu rồi" (Gioan 2: 1-12).
Nhiều người đã có kinh nghiệm khi chia sẻ tâm tình và hiệp thông với Mẹ Maria, nhất là vào những cao điểm khi biến cố trong cuộc đời của Mẹ xẩy ra tương tự với biến cố của họ, thí dụ như khi chuẩn bị ơn gọi, chịu tai tiếng, thiếu thốn khi mang thai, khi sinh nở, và trốn chạy khi tỵ nạn. Các hình ảnh diễn tả Mẹ đứng dưới chân thập tự, và hình ảnh truyền thống diễn tả Mẹ nhận xác Chúa Giêsu từ thập giá (Pieta), gợi cho thấy một hình ảnh đặc biệt của bà Mẹ đau khổ bồng xác con, chứng kiến chính cái chết của con mình. Cả Anh giáo và Công giáo Roma đều nhìn đến hình ảnh Mẹ Ðức Kitô qua hình ảnh của một bà Mẹ diụ dàng và đầy yêu thương.
72. Vai trò hiền mẫu của Mẹ Maria, đầu tiên được ghi nhận trong các trình thuật phúc âm, kể lại liên hệ của Mẹ với Chúa Giêsu. Các vai trò này phát triển và diễn tả nhiều nét đa dạng. Người Kitô hữu nhận rằng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa nhập thể. Khi họ suy niệm lời trăn trối của Chúa cho người môn đệ yêu thương "này là con bà" (Gioan 19: 27), họ cũng sẽ nghe thấy lời mời gọi dành cho Mẹ như "của mọi tín hữu": Mẹ sẽ lo lắng cho mọi người như Mẹ đã lo lắng cho con Mẹ trong giờ lâm tử. Khi nghe gọi Evà là "Mẹ của chúng sinh" (Sáng thế ký 3: 20), người tín hữu sẽ có thể nhận ra rằng Mẹ Maria là Mẹ của một nhân loại mới, khi Mẹ linh hoạt trong sứ vụ của Mẹ, dẫn đưa mọi dân về với Chúa vì phúc lộc của mọi người.
Chúng tôi đồng ý, khi cẩn thận lưu tâm việc xử dụng những hình ảnh như vậy, thì cũng am hợp để áp dụng cho Mẹ Maria, theo cách tôn vinh mối liên hệ đặc biệt của Mẹ với con mình, và tôn vinh kết quả tốt đẹp mà Chúa thực hiện trong tiến trình cứu chuộc của con Mẹ.
73. Nhiều người Kitô hữu nhận thấy, biểu lộ lòng tri ân của họ với sứ vụ của Mẹ Maria, đã khiến lòng thờ phượng của họ dành cho Thiên Chúa phong phú hơn. Lòng sùng mộ phổ thông khi đúng chỗ, tự bản tính của mình, biểu lộ nét đa dạng văn hóa, cá nhân và trên cả lãnh vực từng miền. Cần kính trọng những biểu lộ này. Ðám đông khi tụ họp tại những nơi mà người ta tin Mẹ Maria đã hiện ra, gợi ý cho thấy các cuộc hiện ra đóng một phần quan trọng trong đời sống sùng mộ, và giúp cho họ thảnh thơi tâm hồn. Cần lưu tâm giá trị tinh thần của các cuộc hiện ra này. Sách chú giải của Giáo hội công giáo Roma gần đây đã nhấn mạnh đến giá trị tinh thần đó như sau:
"Mặc khải tư có thể mang lại những trợ giúp quý báu cho việc hiểu biết và sống Thánh Kinh cách tốt đẹp hơn trong một khoảng thời gian đặc biệt; vì vậy không nên coi thường. Mặc khải tư đã hiện diện, nhưng không phải ai cũng buộc cần dùng...
"Tiêu chuẩn về sự thật và giá trị của mặc khải tư cần quy hướng về chính Chúa Kitô. Khi mặc khải tư đưa chúng ta xa khỏi Chúa, khi nó trở nên độc lập với Chúa, hoặc ngay cả khi nó xuất hiện như một phương cách cứu rỗi khác biệt và tốt đẹp hơn, quan trọng hơn phúc âm, thì chắc chắn nó không thể đến từ Thánh linh (Thánh bộ đức tin, "Bình luận thần học về sứ điệp Fatima, 26 tháng 6, 2000)
Chúng tôi đồng ý rằng trong những giới hạn do bản giáo huấn này đề ra, vinh quang dành cho Chúa Kitô tiếp tục đóng vai trò trọng yếu, vì vậy người tín hữu có thể chấp nhận, nhưng không buộc phải tuân giữ các mặc khải tư.
74. Khi bà Isave chào mừng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đã trả lời bằng bài ca chúc tụng Thiên Chúa và tuyên xưng sự công chính của Chúa dành cho người nghèo trong kinh Magnificat (Lu-ca 1: 46-55). Trong lời đáp từ của Mẹ Maria, chúng ta có thể thấy thái độ khó nghèo với Chúa. Thái độ này phản ảnh sự giao kết và yêu thương thần thiêng Chúa dành cho người nghèo. Trong sự nhỏ bé, vô sức lực của Mẹ, Thiên Chúa nâng Mẹ lên đỉnh cao.
Mặc dầu chứng tá của sự vâng phục và chấp nhận ý Chúa nơi Mẹ đôi khi bị coi như dấu hiệu thụ động và áp đặt tính phục tùng lên người phụ nữ, nhưng thực sự thì đây chính là lời đoan thệ tận cùng dành cho Chúa, Ðấng thương xót tôi tớ của Ngài, nâng người hèn mọn lên và hạ kẻ quyền thế xuống. Vấn nạn về công bình dành cho nữ giới và ban uy quyền cho người bị áp bức đã trở thành cao điểm trong suy niệm hằng ngày, từ bài ca chúc tụng cao vời của Mẹ Maria. Gợi hứng qua lời của Mẹ, nhiều cộng đoàn nữ và nam giới thuộc các nền văn hóa khác nhau, đã dấn thân làm việc cho người nghèo và bị bỏ rơi. Chỉ khi nào niềm vui hoà nhập với công bằng và an bình thì chúng ta mới thực sự chia sẻ nhiệm cuộc hy vọng và ân sủng mà Mẹ Maria đã tuyên xưng và ấp ủ.
75. Cùng nhau khẳng định một cách quả quyết vai trò trung gian độc nhất của Ðức Kitô, Ðấng ban ân phúc cho đời sống giáo hội, chúng tôi không cho rằng việc người tín hữu xin Mẹ Maria và các thánh cầu nguyện cho họ, tạo ra chia rẽ. Bởi vì các khó khăn trong quá khứ đã trở nên sáng tỏ qua các xác định về tín lý, về canh tân phụng vụ và giáo huấn cụ thể, chúng tôi tin rằng không có những chia rẽ trong giáo hội về những vấn đề này.
Kết luận
76. Cuộc nghiên cứu của chúng tôi, đang khi khai mở những bài đọc Thánh Kinh cẩn trọng về giáo hội và đại kết dưới ánh sáng truyền thống chung cổ thời, đã khai sáng một phương cách mới về vai trò của Mẹ Maria trong nhiệm cuộc hy vọng và ân sủng. Cùng nhau, chúng tôi tái xác định những đồng ý mà trước đây trong ARCIC "Authority in the Church II", số 30 đã đưa ra:
- Bất cứ một giải thích nào về vai trò của Mẹ Maria đều không được phép làm lu mờ vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô.
- Mọi vai trò Mẹ phải liên hệ với tín điều về Chúa Kitô và giáo hội.
- Chúng tôi xác nhận rằng đức trinh nữ Maria là Theotokos, Mẹ Thiên Chúa nhập thể. Với vai trò này, cần tuân giữ các lễ hội xứng hợp với vinh dự của Mẹ giữa các thánh.
- Qua ân sủng, Thiên Chúa đã chuẩn bị Mẹ Maria trở nên Mẹ đấng cứu chuộc chúng ta. Chính nhờ đấng cứu chuộc mà Mẹ được cứu chuộc và được đón rước vinh quang.
- Chúng tôi xác nhận Mẹ Maria là khuôn mẫu của sự thánh thiện, tín thác và vâng phục cho mọi Kitô hữu; và
- Mẹ Maria được coi như hình ảnh tiên tri của giáo hội.
- Chúng tôi tin rằng lời xác nhận này đã đào sâu và khai triển thêm cách mạnh mẽ những đồng ý chung này, đồng thời đặt chúng vào tiến trình nghiên cứu chung về tín điều và sùng kính dành cho Mẹ Maria.
77. Chúng tôi tín thác rằng bất cứ cố gắng nào nhằm tiến tới một hiểu biết chung dung hoà các vấn đề trên phải bắt đầu bằng việc lắng nghe lời Chúa trong Thánh Kinh. Vì thế, thông cáo chung của chúng tôi khởi đầu với cố gắng tìm hiểu thận trọng các chứng tá thật phong phú về Mẹ Maria trong Tân ước, dưới ánh sáng của chủ đề và nhịp độ chung toàn bộ của Thánh Kinh.
Cuộc nghiên này đã dẫn đưa chúng tôi đến kết luận rằng không thể trung tín với Thánh Kinh mà không chú tâm đến con người Mẹ Maria (Xc. các số 6-30).
Khi cùng nhau nhớ lại truyền thống chung cổ thời, chúng tôi đã suy tư cách mới mẻ sự quan trọng cốt yếu của Theotokos, trong các tranh chấp dựa trên Kitô học, và việc các vị giáo phụ xử dụng hình ảnh Thánh Kinh để giải thích và cử hành vai trò của Mẹ Maria trong chương trình cứu độ (31-40).
Chúng tôi đã xem xét lại tiến triển của lòng sùng mộ dành cho Mẹ Maria thời trung cổ cũng như các tranh chấp thần học liên hệ. Chúng tôi cũng tìm hiểu tại sao xẩy ra các quá khích thời hậu trung cổ về lòng sùng mộ, cũng như phản ứng ngược lại từ phía người Cải cách, đã khiến cho hai giáo hội tách xa nhau. Rồi sau đó, thái độ dành cho Mẹ Maria cũng dẫn đến các lối nẻo khác nhau (41-46).
Chúng tôi đã nhận ra bằng chứng về những khai triển từ cả hai giáo hội. Những khai triển này mở con đường mới cho tiến trình tái đón nhận vai trò của Mẹ Maria trong đức tin và trong đời sống giáo hội (số 47-51).
Sự tăng triển chung đó cũng cho phép chúng tôi tiến gần đến những vấn nạn về Mẹ Maria với một phương cách tươi mát. Ðây là vấn nạn mà cả hai giáo hội đã cùng nhận ra. Ðể được như vậy, chúng tôi đóng khung các việc làm của mình trong tiến trình ân sủng và hy vọng mà chúng tôi khám ra trong Thánh Kinh -"tiền định... được mời gọi... được công chính hóa... được vinh quang" (Rom. 8: 30; 52-57).
Cùng đồng ý
78. Dựa trên kết quả của cuộc nghiên cứu chung, uỷ ban đưa ra những đồng ý chung sau đây mà chúng tôi tin rằng sẽ đóng góp nhiều vào các ý kiến đồng thuận liên quan đến Mẹ Maria. Chúng tôi cùng khẳng định:
Lời giáo huấn dậy rằng Thiên Chúa đã đưa đức trinh nữ Maria với trọn vẹn con người Mẹ vào vinh quang của Ngài thì xứng hợp với Thánh Kinh và chỉ có thể được hiểu trong ánh sáng Thánh Kinh (58).
Với cái nhìn về ơn gọi của Mẹ là Mẹ Ðấng Thánh duy nhất, công việc cứu chuộc của Chúa Kitô đã "hồi tố" cho Mẹ Maria, đến tận sâu thẳm con người của Mẹ, và vào thời điểm sớm nhất trong cuộc đời Mẹ. (59).
Lời giáo huấn về Mẹ Maria qua hai tín điều Ðức Mẹ linh hồn và xác lên trời và vô nhiễm nguyên tội, phải hiểu trong tiến trình Thánh Kinh của nhiệm cuộc hy vọng và ân sủng. Lời giáo huấn này được coi là xứng hợp với những lời dậy dỗ trong Thánh Kinh và trong truyền thống chung cổ thời. (60).
Sự đồng ý chung này, khi được cả hai giáo hội chúng ta công nhận, có thể đặt vấn nạn về quyền bính phát sinh từ hai tín điều 1854 và 1950 trong văn bản mới về đại kết (61-62).
Mẹ Maria, qua sứ vụ liên tục của Mẹ, phục vụ sứ vụ của Ðức Kitô, đấng trung gian duy nhất của chúng ta. Mẹ Maria và các thánh cầu nguyện cho toàn thể giáo hội, và việc thực hành lòng sùng mộ xin Mẹ Maria và các thánh cầu nguyện cho chúng ta, không làm hai giáo hội chia rẽ (64-75).
79. Chúng tôi đồng ý rằng nếu có tín điều và lòng sùng mộ nào trái ngược với Thánh Kinh thì không thể coi là Thiên Chúa mặc khải, cũng không thể coi là giáo huấn của giáo hội. Chúng tôi đồng ý rằng tín điều và lòng sùng mộ quy hướng về Mẹ Maria, kể cả các tuyên bố cho rằng đây là "mặc khải tư" phải điều chỉnh cách cẩn thận, qua các điều lệ bảo đảm sự vẹn toàn của vai trò quan yếu và duy nhất của Chúa Giêsu Kitô trong đời sống giáo hội. Trong giáo hội, chỉ thờ kính một mình Chúa Kitô mà thôi, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
80. Thông điệp của chúng tôi không nhằm mục đích làm sáng tỏ mọi vấn đề, nhưng đào sâu thêm hiểu biết chung của chúng tôi về các nét đa dạng khi thực hành lòng sùng mộ, mà cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại. Những thực hành này có thể được đón nhận như những việc làm phong phú của Thánh linh giữa dân Chúa. Chúng tôi tin rằng sự đồng ý chung mà chúng tôi phác họa nơi đây chính là sản phẩm của tiến trình tái đón nhận tín điều về Mẹ Maria từ cả hai phía Anh giáo và Công giáo Roma. Nhờ sự tái đón nhận này, có thể sẽ có những sự giao hòa, qua đó, vấn đề liên quan đến tín điều và lòng sùng mộ dành cho Mẹ Maria, sẽ không còn là những chia rẽ giữa hai giáo hội, hoặc trở ngại cho tiến trình mới trong sự phát triển chung của chúng ta về một koinonia hữu hình. Thông cáo chung này của chúng tôi giờ đây xin đệ đạt lên các vị có thẩm quyền. Chính bản thông cáo chung có thể tự chứng minh rằng, đó là một nghiên cứu có giá trị các giáo huấn của Thánh Kinh và truyền thống cổ thời về Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa nhập thể. Chúng tôi hy vọng khi chúng ta cùng chia sẻ một Thánh linh, mà qua đó Mẹ Maria đã được chuẩn bị và thánh hiến cho ơn gọi độc nhất của mình, thì chúng ta cùng nhau, với Mẹ và với các thánh, dâng lên Thiên Chúa một bài ca chúc tụng không bao giờ ngưng nghỉ.
Chú Thích:
(1) (Lưu ý: Các đoạn trong ngoặc đơn là chú giải do người dịch. Các chú giải không trong ngoặc đơn, nhưng đề chữ Số là nguyên bản) (Ðây là các tín điều Ðức Mẹ vô nhiễm nguyên tội và Ðức Mẹ linh hồn và xác lên trời.)
(2) Theotokos là tiếng Hy Lạp có nghĩ a là người mang Thiên Chúa (God bearer)
(3) (Chỗ này hơi khó dịch theo nguyên nghĩa. Ðây là một kiểu xử dụng ngôn ngữ của chữ trong nguyên bản. ''Fiat'' nghĩa là Xin Vâng, lời Mẹ Maria trả lời sứ thần. ''Yes'' khi Chúa chấp nhận hoặc trả lời, cũng có nghĩa là Xin Vâng. Tuy nhiên, không thể dịch rằng Chúa Con nói lời Xin Vâng với nhân loại.)
(4) (Một loại xử dụng ngôn ngữ tương tự như trên. Amen cũng có nghĩa là Xin Vâng. Chúng ta thưa Amen kết các lời nguyện, khi lên rước lễ...)
(5) (Tức là Thánh Kinh)
(6) Số 1 trong nguyên bản. Khi dùng cụm từ nghĩa bóng, chúng tôi muốn nhấn mạnh, bài đọc tân ước chấp nhận một vài điều nào đó trong thánh kinh (về người, nơi chốn và biến cố) ám chỉ hoặc gợi hình những điều khác hoặc để giúp suy tư các tiến trình trong đức tin, qua những phương cách hình dung (thí dụ A-dong là hình bóng của Chúa Kitô: Roma 5: 14; Isaia 7:14 hướng đến sự giáng sinh trinh trắng của Chúa Giêsu: Mat-thêu 1: 23). Loại nghĩa bóng đó nhằm nói lên ý nghĩa vượt khỏi nghĩa đen thông thường. Phương cách này cần hiểu trong sự hiệp nhất và liên tục của ơn mặc khải thánh.
(7) (Các vị thời Phục Hưng nghĩa là Tin Lành.)
(8) (Có ý muốn nói đến sách Cách ngôn)
(9) Số 2. Dựa trên khuôn mẫu mang nặng đặc tính Do thái trong văn chương Mat-thêu và Lu-ca, rồi nếu so sánh nét tương đồng với thần thoại ngoại giáo hoặc theo sự tán dương cho rằng đồng trinh đáng tán dương hơn lập gia đình, để rồi từ đó giải thích nguồn gốc truyền thống câu truyện Mẹ thụ thai đồng trinh, thì không có căn bản. Cũng không có căn bản khi giải thích rằng thụ thai đồng trinh phát xuất từ việc đọc theo từng chữ bản văn Hy lạp của Isaia 7: 14 (LXX). Bởi vì văn mạch Lu-ca không theo lối hành văn đó. Hơn thế nữa, khi gợi ý ý tưởng thụ thai đồng trinh nhằm trả lời cho cáo buộc sinh hạ Chúa Giêsu thì cũng không chắc chắn.
(10) (Chúng tôi dùng chữ Người khi nói về Chúa Giêsu.)
(11) Số 3. Mặc dầu chữ anh em nghĩa là anh em ruột, tiếng Hy lạp adelphos, giống như chữ 'ah trong Do thái, mang ý nghĩa rộng hơn khi nói về anh em họ (thí dụ Sáng thế ký 29: 12 LXX) hoặc còn có nghĩa là anh em cùng cha khác mẹ (thí dụ Mac-cô 6: 17). Trong văn mạch của Mac-cô (3:31), cũng có thể hiểu là họ hàng, chứ không chỉ là anh em ruột. Mẹ Maria quả thực có một đại gia đình. Gioan 19: 25 nhắc đến chị của Mẹ, Luca nhắc đến chị họ của Mẹ là Isave (Luca 1:36). Trong giáo hội thời cổ xưa, đã có nhiều cách giải thích khác nhau về từ ngữ "anh em" Chúa Giêsu. Có cách nói là anh em ruột, có cách nói là anh em họ.
(12) Số 4. Văn bản Hebrew (tức là Do thái cổ) Sáng thế ký 3:15 nói đến mối thù giữa con rắn và người phụ nữ, giữa dòng dõi con rắn và dòng dõi người phụ nữ. Ðại danh từ (hu') khi nói về người đạp con rắn "Ông ta sẽ đánh dập đầu mày" dùng từ ngữ giống đực. Còn bản dịch LXX tiếng Hy lạp mà giáo hội cổ thời dùng, thì lại dùng từ ngữ autos, không để chỉ dòng dõi, nhưng nhắm đến người nam - có thể là Ðấng Mesia - sinh ra bởi người phụ nữ. Bản phổ thông (Vulgate) dịch sai đọan văn này ipsa conteret caput tuum (bà ta sẽ đạp dập đầu mày). Ðại danh từ (ipsa chỉ giống cái - chú thích của người dịch) này khiến một số người giải thích là để chỉ Mẹ Maria, và trở thành truyền thống trong giáo hội La-tinh. Bản tân phổ thông (Neo-Vulgate, 1986) trở về nguyên gốc, dùng đại danh từ giống dở ipsum trong văn bản như sau semen illius: "Inimicitias ponam inter te et mulierem et semen tuum et semen illius; ipsum conteret caput tuum, et tu conteres calcaneum eius."
(13) Số 5. Xin coi Epiphanius of Salamis (+402), Panarion 78, 11; Quadvuldeus (+454) Sermones de Symbolo III, I, 4-6; Oecumenius (+c. 550) Commentarius in Apocalypsin 6.
(14) (Apolinaris làm giám mục thành Laodicea bên Syria khoảng năm 361. Ông này chủ trương rằng nhân tính và thiên tính của Chúa không thể cùng chung sống trong một thân xác. Cho nên, Chúa có thân xác thật nhưng linh hồn và trí khôn của Người là thần linh. Luận cứ bị Công đồng Constantinople lên án (381). Chúa là đấng có trọn vẹn hai bản tính trong một ngôi vị.)
(15) Số 6. Công đồng long trọng chuẩn y nội dung bức thư thứ hai của Cyril gửi cho Nestorius: "Không phải đức Trinh nữ thánh sinh ra người thường, sau đó Ngôi Lời ngự vào; chúng tôi muốn nói rằng: kết hợp với thân xác trong lòng, Ngôi Lời đã sinh ra trong thân xác... Vì vậy, các thánh giáo phụ đã có can đảm để nói rằng Ðức trinh nữ thánh là Theotokos (DA 251)
(16) Số 7. Văn kiện Tome de Leo (chú giải của người dịch: Tome de Leo là bức thư của đức giáo hoàng Leo gửi cho Flavian vào năm 449. Thư này được công đồng Chalcedon chuẩn nhận), đang khi đóng vai trò quan trọng giúp các tuyên ngôn công đồng Chalcedon, đã tuyên tín rằng Ðức Kitô "chịu thai do Chúa Thánh Thần trong lòng Trinh nữ Maria, Ðấng đã sinh ra Người mà không mất đi đồng trinh, cũng như Mẹ đã mang thai Người mà không mất đi đồng trinh" (DS 291). Tương tự, Athanasius nói trong De Virginitate (Le Muséon 42: 244, 248) về "Ðức Maria đã... đồng trinh cho đến cuối (thành khuôn mẫu) cho mọi người đến với Mẹ" xc. John Chrysostom (+407) "Bài giảng về Mat-thêu 5, 3. Công đồng chung đại kết đầu tiên đã dùng từ ngữ Aeiparthenos (semper virgo - luôn luôn đồng trinh - chú giải của người dịch) là công đồng thứ nhì nơi thành Constanstinople (553). Ðịnh nghĩa này đã mặc nhiên trong các văn bản cổ thời phương Tây về Mẹ Maria virginitas as ante partum, in partu, post partum (chú giải của người dịch: Mẹ Maria đồng trinh trước, đang khi và sau khi). Truyền thống này xuất hiện đều đặn trong giáo hội Tây Phương từ thời thánh Ambrose về sau. Như thánh Augustinô đã viết: "Mẹ chịu thai Người khi là cô gái đồng trinh, mẹ sinh hạ đồng trinh, và Mẹ tiếp tục đồng trinh" (Sermo 51, 18; xc Sermo 196, 1)
(17) Số 8. Ireneous phê bình mẹ đã "khá vội vã" tại Cana khi "tìm cách đẩy con Mẹ làm phép lạ trước giờ của Người" (Adv. Haer III, 16, 7); Origen khi nói đến sự hồi hộp trong đức tin dưới chân thánh giá, "như vậy Mẹ cũng mang một vài tội mà vì thế Chúa Giêsu phải chết" (Hom. In Lc 17, 6). Các ý tưởng tương tự như vậy cũng có trong sách của Tertullian, Ambrose và John Chrysostom.
(18) Số 9. Theo truyền thống, người ta có thể tìm thấy những văn bản như trên vào thời xa xưa như trong Sub tuum praesidium: Văn bản này vẫn còn dùng trong truyền thống phụng vụ Hy Lạp. Các văn bản tương tự như vậy cũng thấy trong phụng vụ Ambrosia, Roman, Byzantine và Coptic. Bản dịch tiếng Anh phổ thông là: "Chúng con chạy đến cùng Mẹ xin cầu bầu, lậy Mẹ Thiên Chúa; xin thương nhìn đến các nhu cầu khẩn thiết của chúng con, chữa chúng con khỏi các nguy hiểm, lậy Ðấng đồng trinh vinh quang và thánh thiện."
(19) (Danh xưng học là một triết thuyết thời trung cổ nhằm đã kích nhóm realists (khái niệm học). Nhóm khái niệm cho rằng các vật thể trong thế giới đã hiện diện trong tâm não trước đó rồi. Thí dụ khi chúng ta nói cái bàn, thì khái niệm về cái bàn đã có sẵn trong đầu. Những người này chịu ảnh hưởng của Plato. Nhóm danh xưng học chủ trương ngược lại. Nhóm này cho rằng khi nói đến cái bàn là hiểu cái bàn hiện tại chứ không khái niệm gì trước cả.)
(20) Số 10. Khi nói "linh hồn và xác" Mẹ Maria về trời tạo ra một số khó khăn dựa trên lịch sử và triết lý. Tuy nhiên, tín điều chấp nhận câu hỏi là, khi không thấy thân xác đã chết của Mẹ trên dương thế, thì hiểu thế nào về lịch sử. Tương tự "linh hồn và xác lên trời" không phải là một đặc ân xét theo nhân chủng học. Tích cực hơn, "linh hồn và xác lên trời" cần hiểu theo nghĩa Kitô học và cánh chung học. Mẹ là Ðấng Cưu Mang Thiên Chúa, đương nhiên, về thể lý, phải liên hệ mật thiết với Chúa Kitô. Và, bởi vì Mẹ mang thân xác Người, Mẹ phải liên hệ mật thiết với giáo hội, thân mình của Chúa Kitô. Tóm lại, tín điều này về Ðức Maria nhằm trả lời các vấn nạn thần học hơn là triết lý.
(21) Số 11. Tín điều này nhằm trả lời vấn nạn xa xưa về thời điểm Mẹ được thánh hóa. Tín điều xác định rõ rằng Mẹ được thánh hóa ngay từ giây phút đầu tiên lúc mới hoài thai.
(22) Số 12. Ðoạn văn của Phaolo trong thư Roma 3:23 - "mọi người đều phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa" - có thể được cắt nghĩa là không ai miễn trừ, ngay cả Mẹ Maria. Tuy nhiên, cần lưu ý văn mạch hùng biện của thư Roma từ đoạn 1-3, khi nhấn mạnh đến mối quan tâm về có tội như nhau giữa người Do thái và dân ngoại (3: 9). Roma 3: 23 nhắm mục đích riêng, không liên hệ đến vấn đề "vô tội" hoặc vấn đề khác tương tự như vậy nơi Ðức Maria.
(23) (Tức là hai tín điều Ðức Mẹ vô nhiễm nguyên tội và Ðức mẹ linh hồn và xác lên trời.)
(24) Số 13. Theo hoàn cảnh hiện nay, những ai không hiệp thông với Roma không buộc phải minh nhiên chấp nhận hai tín điều năm 1854 và 1950. Tương đồng, người Anh giáo phải nhìn nhận rằng những tín điều trên là những diễn tả hợp pháp của đức tin Công giáo, và phải kính trọng những diễn tả đó, dù cho người Anh giáo không dùng chúng. Có nhiều lúc trong tiến trình đại kết, một bên có thể định nghĩa de fide khác với bên kia, thí dụ như trong Tuyên Ngôn Kitô Giáo Chung giữa giáo hội Công giáo và Giáo hội Assyrian Ðông Phương về tín điều công đồng Chalcedon, hoặc Thông Cáo Chung về Ðức tin Công Chính hóa giữa Giáo hội Công giáo Roma và Liên hiệp tin lành Lutherô.
LM Anthony Ðào Quang Chính, OP. chuyển dịch Việt ngữ