Bài Giảng Lễ Lá cảm động của ĐTC: Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?
Sáng Chúa Nhật 2 tháng Tư, Lễ Lá, khởi sự Tuần Thánh, là tuần lễ quan trọng nhất trong Phụng Vụ Công Giáo đã được cử hành tại quảng trường Thánh Phêrô. Ngày Chúa Nhật Lễ Lá này cũng là ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 38 được cử hành ở cấp giáo phận.
Trước sự hiện diện của đông đảo các tín hữu, lên đến 70.000 người, đông hơn gấp đôi năm ngoái khi mới thoát khỏi đại dịch coronavirus, cuộc rước lá, tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem đã diễn ra trọng thể, và được tiếp nối bằng thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Các cành lá dừa các bạn trẻ cầm trong cuộc rước lá do các Cộng đoàn Con đường Tân dự tòng trao tặng; còn các cây và cành ô liu trang trí bàn thờ và Quảng trường thánh Phêrô do miền Puglie nam Italia tặng. Sau cùng 2 ngàn cành lá dừa màu vàng được kết bện rất nghệ thuật, do các chính quyền ở thành phố San Remo và Bordighera và một số tổ chức khác ở miền Liguria trao tặng theo một truyền thống có từ thế kỷ 16. Các cành lá này được đoàn đồng tế, kinh sĩ đoàn Đền thờ Thánh Phêrô và đoàn giúp lễ và một số người khác cầm trong tay.
Vì còn đau đầu gối không đi lại được dễ dàng, nên Đức Thánh Cha phải dùng xe để đến tận khu vực cây tháp bút ở giữa quảng trường, nơi diễn ra các nghi thức làm phép lá.
Đồng tế với ngài và tham dự cuộc rước lá có 30 Hồng Y và 50 Giám Mục. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa thánh, còn có ca đoàn và ban nhạc của giáo phận Roma và ca đoàn Mẹ Giáo Hội.
Trong bài giảng sau bài Thương Khó, Đức Thánh Cha nói:
“Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46). Đây là tiếng kêu mà phụng vụ hôm nay yêu cầu chúng ta lặp lại trong thánh vịnh đáp ca (x. Tv 22:2), tiếng kêu duy nhất của Chúa Giêsu trên thập giá trong Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe. Những lời này đưa chúng ta đến tâm điểm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, tột đỉnh của những đau khổ Người đã chịu để cứu độ chúng ta. “Sao Ngài bỏ rơi con?”.
Những đau khổ của Chúa Giêsu rất nhiều, và bất cứ khi nào chúng ta lắng nghe trình thuật về Cuộc Khổ nạn, chúng đâm thấu tâm hồn chúng ta. Có những đau khổ về thể xác: chúng ta hãy nghĩ đến những cái tát và những trò đánh đập, đánh đòn và đội mão gai, và cuối cùng là sự tàn ác của việc đóng đinh. Cũng có những đau khổ của linh hồn: sự phản bội của Giuđa, sự chối bỏ của Phêrô, sự lên án của chính quyền tôn giáo và dân sự, sự nhạo báng của lính canh, sự nhạo báng dưới chân thập giá, sự từ chối của đám đông, sự thất bại hoàn toàn và cuộc trốn chạy của các môn đệ. Tuy nhiên, giữa tất cả những nỗi buồn này, Chúa Giêsu vẫn chắc chắn một điều: đó là sự gần gũi của Chúa Cha. Tuy nhiên, giờ đây, điều không tưởng tượng nổi đã xảy ra. Trước khi chết, Ngài kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Tình trạng bị bỏ rơi của Chúa Giêsu.
Đây là nỗi khổ đau nhức nhối nhất trong mọi nỗi khổ, nỗi khổ của tinh thần. Vào giờ bi thảm nhất của mình, Chúa Giêsu cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi. Trước thời điểm đó, Ngài chưa bao giờ gọi Cha bằng tên chung là “Chúa”. Để truyền đạt tác động của điều này, Tin Mừng cũng thuật lại những lời của Người bằng tiếng Aramaic “Êli, Êli, lêma xabácthani”. Đây là những lời duy nhất của Chúa Giêsu từ thập giá đã đến với chúng ta trong ngôn ngữ gốc. Sự kiện thực sự là sự suy sụp cùng cực, bị Cha bỏ rơi, bị Chúa bỏ rơi. Chúng ta thậm chí còn khó hiểu được nỗi đau khổ to lớn mà Ngài đã gánh chịu vì tình yêu dành cho chúng ta. Ngài thấy cánh cổng thiên đường đóng lại, Ngài thấy mình ở bờ vực cay đắng, giữa con tàu đắm của cuộc đời, sự sụp đổ của xác tín. Và Ngài kêu lên: “Tại sao?” Một câu “tại sao” bao hàm mọi câu “tại sao” khác từng được nói ra. “Lạy Chúa, tại sao?”.
“Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Trong Kinh thánh, từ “bỏ rơi” có sức mạnh lớn. Chúng ta nghe thấy nó vào những lúc đau đớn tột cùng: tình yêu không thành, hoặc bị từ chối hoặc bị phản bội; trẻ em bị từ chối và phá thai; hoàn cảnh bị hắt hủi, cảnh goá bụa và trẻ mồ côi; hôn nhân tan vỡ, các hình thức loại trừ xã hội, bất công và áp bức; sự cô độc của bệnh tật. Tóm lại, trong tình cảnh bị cắt đứt mạnh mẽ các mối dây liên kết chúng ta với người khác. Ở đó, từ này được nói lên: “bỏ rơi”. Chúa Kitô đã mang tất cả những điều này lên thập tự giá; trên đôi vai của mình, Ngài mang tội lỗi của thế giới. Và vào giây phút tột cùng, Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Chúa Cha, đã trải qua một hoàn cảnh hoàn toàn xa lạ với chính bản thể của Người: bị bỏ rơi, xa cách Thiên Chúa.
Tại sao phải ra đến nông nỗi này? Thưa: Ngài đã làm điều đó cho chúng ta. Không có câu trả lời nào khác. Cho chúng ta. Thưa anh chị em, ngày nay đây không chỉ là một buổi trình diễn. Mỗi người chúng ta khi nghe tin Chúa Giêsu bị bỏ rơi đều có thể nói: cho tôi. Sự ruồng bỏ này là cái giá mà Ngài phải trả cho tôi. Ngài trở nên một với mỗi người chúng ta để nên một với chúng ta một cách trọn vẹn và dứt khoát cho đến cùng. Ngài đã trải qua sự bỏ rơi để không bỏ mặc chúng ta trong tuyệt vọng, để ở bên chúng ta mãi mãi. Ngài đã làm điều này cho tôi, cho anh chị em, bởi vì bất cứ khi nào anh chị em hoặc tôi hoặc bất kỳ ai khác dường như bị dồn vào chân tường, bị lạc trong đường cùng, rơi xuống vực thẳm của sự bỏ rơi, bị cuốn vào một cơn lốc của rất nhiều câu hỏi “tại sao” mà không có câu trả lời, ở đó vẫn có thể có một niềm hy vọng: đó là chính Chúa Giêsu, cho anh chị em, cho tôi. Đó không phải là kết thúc, bởi vì Chúa Giêsu đã ở đó và ngay cả bây giờ, Ngài đang ở bên cạnh anh chị em. Ngài đã chịu đựng khoảng cách bị bỏ rơi để đón vào trong tình yêu của Ngài mọi khoảng cách mà chúng ta có thể cảm nhận được. Để mỗi người chúng ta có thể nói rằng: trong những thất bại của tôi, và mỗi chúng ta đã nhiều lần thất bại, trong sự cô đơn của tôi, bất cứ khi nào tôi cảm thấy bị gạt ra ngoài lề hoặc gạt người khác sang một bên, bất cứ khi nào tôi cảm thấy bị phản bội hoặc bị người khác phản bội, bất cứ khi nào tôi cảm thấy bị bỏ rơi hoặc bị người khác bỏ rơi, chúng ta hãy nghĩ đến Chúa Giêsu, Đấng đã bị bỏ rơi, bị phản bội và bị loại bỏ. Ở đó, chúng ta tìm thấy Ngài. Khi tôi cảm thấy lạc lõng và bối rối, khi tôi cảm thấy mình không thể tiếp tục, Ngài đã ở bên cạnh tôi. Giữa tất cả những câu hỏi chưa được trả lời của tôi “tại sao…?”, Ngài đang ở đó.
Đó là cách Chúa cứu chúng ta khỏi câu hỏi “tại sao?” Từ trong câu hỏi ấy, Người mở ra chân trời hy vọng không gây thất vọng. Trên thập giá, ngay cả khi cảm thấy bị bỏ rơi hoàn toàn –bị dồn đến cùng đường – Chúa Giêsu không chịu khuất phục trước sự tuyệt vọng; thay vào đó, Ngài cầu nguyện và tin tưởng. Ngài kêu lên “tại sao?” như lời của Thánh Vịnh (22:2), và phó thác mình trong tay Chúa Cha, mặc dù Ngài cảm thấy Chúa Cha xa vời biết dường nào (x. Lc 23:46) hay đúng hơn, Ngài không cảm nhận được vì thấy mình bị bỏ rơi. Trong giờ bị bỏ rơi, Chúa Giêsu vẫn tin tưởng. Trong giờ phút bị bỏ rơi, Người tiếp tục yêu thương những môn đệ đã chạy trốn, để Người lại một mình. Trong tình trạng bị bỏ rơi của mình, Ngài đã tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Ngài (c. 34). Ở đây, chúng ta thấy vực thẳm của nhiều điều xấu xa của chúng ta được đắm chìm trong một tình yêu vĩ đại hơn, mà kết quả là sự cô lập của chúng ta trở thành tình bằng hữu.
Anh chị em thân mến, một tình yêu như thế này, bao trùm chúng ta hoàn toàn và cho đến cùng, tình yêu của Chúa Giêsu, có thể biến trái tim chai đá của chúng ta thành trái tim bằng thịt. Tình yêu của Ngài là tình yêu thương xót, dịu dàng và trắc ẩn. Đây là phong cách của Thiên Chúa: gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng. Thiên Chúa là như thế. Chúa Kitô, khi bị bỏ rơi, thúc đẩy chúng ta tìm kiếm và yêu mến Ngài và những người bị bỏ rơi. Vì nơi họ, chúng ta không chỉ nhìn thấy những con người túng thiếu, mà còn nhìn thấy chính Chúa Giêsu, Đấng bị bỏ rơi: Chúa Giêsu, Đấng đã cứu chúng ta bằng cách xuống tận đáy sâu thân phận con người của chúng ta. Ngài ở với từng người trong số họ, bị bỏ rơi thậm chí cho đến chết… Tôi nghĩ đến một người Đức được gọi là “người đường phố”, là người đã chết dưới những hàng cột của quảng trường này, một mình và bị bỏ rơi. Anh ta là Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta. Rất nhiều người cần sự gần gũi của chúng ta, rất nhiều người bị bỏ rơi. Tôi cũng cần Chúa Giêsu vuốt ve tôi và đến gần tôi, và vì lý do này, tôi đi tìm Người trong những người bị bỏ rơi, những người cô đơn. Ngài muốn chúng ta quan tâm đến những anh chị em giống Ngài nhất, những người đang trải qua đau khổ và cô đơn cùng cực. Ngày nay, anh chị em thân mến, số lượng của họ đông đảo. Toàn thể các dân tộc bị bóc lột và bị bỏ rơi; người nghèo sống trên đường phố của chúng ta và chúng ta nhìn theo hướng khác; có những người di cư không còn khuôn mặt mà chỉ còn là những con số; có những tù nhân bị từ chối; mọi người bị coi là vấn đề. Vô số những người bị bỏ rơi khác đang ở giữa chúng ta, vô hình, ẩn mình, bị vứt bỏ với đôi găng tay trắng: những đứa trẻ chưa chào đời, những người già sống một mình: họ có thể là cha mẹ anh chị em, ông bà anh chị em, bị bỏ lại một mình trong các viện dưỡng lão, những người bệnh mà không ai thăm viếng, những người tàn tật bị phớt lờ, và những người trẻ bị gánh nặng bởi sự trống rỗng nội tâm to lớn, không có ai sẵn sàng lắng nghe tiếng kêu đau đớn của họ. Và họ không tìm thấy con đường nào khác ngoài tự sát. Bị bỏ rơi trong thời đại của chúng ta. Các “Đấng Kitô” của thời đại chúng ta.
Trong tình trạng bị bỏ rơi của mình, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta mở rộng tầm mắt và trái tim của mình cho tất cả những ai thấy mình bị bỏ rơi. Đối với chúng ta, là những môn đệ của Chúa “bị bỏ rơi”, không một người đàn ông, đàn bà hay trẻ em nào có thể bị coi là kẻ bị ruồng bỏ, không ai đáng bị bỏ rơi một mình. Chúng ta hãy nhớ rằng những người bị từ chối và bị loại trừ là những hình ảnh sống động của Chúa Kitô: họ nhắc nhở chúng ta về tình yêu liều lĩnh của Người, sự từ bỏ của Người đã giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức cô đơn và cô lập. Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta hãy nài xin ân sủng này: đó là yêu mến Chúa Giêsu trong tình trạng bị bỏ rơi của Người và yêu mến Chúa Giêsu trong những người bị bỏ rơi xung quanh chúng ta. Chúng ta hãy xin ơn được nhìn thấy và thừa nhận Chúa là Đấng tiếp tục kêu cầu nơi họ. Xin cho chúng ta đừng để cho tiếng nói của Người không được nghe thấy giữa sự im lặng chói tai của sự thờ ơ. Chúa đã không bỏ rơi chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy quan tâm đến những người cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi. Khi đó, và chỉ khi đó, chúng ta mới đồng tâm nhất trí với Đấng đã vì chúng ta mà “hoàn toàn trút bỏ” (Pl 2:7). Ngài đã hoàn toàn trút bỏ chính mình vì chúng ta.
Sau khi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, Đức Thánh Cha nói thêm như sau
Anh chị em thân mến!
Tôi chào tất cả anh chị em, những người đến từ Rôma và những người hành hương, đặc biệt là những người từ xa đến. Tôi xin cám ơn sự tham dự của anh chị em và cả những lời cầu nguyện của anh chị em, những lời cầu nguyện đã được tăng cường trong những ngày qua. Thành thật cảm ơn anh chị em!
Tôi xin ban phép lành đặc biệt cho Đoàn lữ hành Hòa bình, trong những ngày này, đã khởi hành từ Ý để đến Ukraine, được thúc đẩy bởi nhiều hiệp hội: Giáo hoàng Gioan XXIII, FOCSIV, Pro Civitate Christiana, Pax Christi và những hiệp hội khác. Cùng với những nhu yếu phẩm cơ bản, họ đang mang lại sự gần gũi của người dân Ý với người dân Ukraine đang bị vùi dập, và hôm nay, họ đang dâng những cành ô liu, biểu tượng của hòa bình của Chúa Kitô. Chúng ta hãy hiệp nhất với cử chỉ này bằng lời cầu nguyện của chúng ta, chắc chắn sẽ mạnh mẽ hơn trong những ngày của Tuần Thánh.
Anh chị em thân mến, chúng ta đã bắt đầu Tuần Thánh với lễ kỷ niệm này. Tôi mời gọi tất cả anh chị em hãy sống điều đó như truyền thống dân thánh trung thành của Chúa đã dạy chúng ta, nghĩa là đồng hành với Chúa Giêsu trong đức tin và đức mến. Chúng ta hãy học nơi Mẹ chúng ta, Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ đã đi theo Con của Mẹ với sự gần gũi của trái tim Mẹ. Mẹ là một linh hồn với Ngài. Và cùng với Người, mặc dù không hiểu hết mọi sự, Mẹ đã hoàn toàn phó mình cho thánh ý Thiên Chúa Cha. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta luôn gần gũi với Chúa Giêsu, hiện diện nơi những người đau khổ, bị loại bỏ, bị bỏ rơi. Xin Đức Mẹ dắt tay chúng ta đến với Chúa Giêsu đang hiện diện nơi những người này.
Tôi chúc mọi người một hành trình tốt đẹp hướng tới lễ Phục sinh!
Trước sự hiện diện của đông đảo các tín hữu, lên đến 70.000 người, đông hơn gấp đôi năm ngoái khi mới thoát khỏi đại dịch coronavirus, cuộc rước lá, tưởng niệm biến cố Chúa Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem đã diễn ra trọng thể, và được tiếp nối bằng thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Các cành lá dừa các bạn trẻ cầm trong cuộc rước lá do các Cộng đoàn Con đường Tân dự tòng trao tặng; còn các cây và cành ô liu trang trí bàn thờ và Quảng trường thánh Phêrô do miền Puglie nam Italia tặng. Sau cùng 2 ngàn cành lá dừa màu vàng được kết bện rất nghệ thuật, do các chính quyền ở thành phố San Remo và Bordighera và một số tổ chức khác ở miền Liguria trao tặng theo một truyền thống có từ thế kỷ 16. Các cành lá này được đoàn đồng tế, kinh sĩ đoàn Đền thờ Thánh Phêrô và đoàn giúp lễ và một số người khác cầm trong tay.
Vì còn đau đầu gối không đi lại được dễ dàng, nên Đức Thánh Cha phải dùng xe để đến tận khu vực cây tháp bút ở giữa quảng trường, nơi diễn ra các nghi thức làm phép lá.
Đồng tế với ngài và tham dự cuộc rước lá có 30 Hồng Y và 50 Giám Mục. Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa thánh, còn có ca đoàn và ban nhạc của giáo phận Roma và ca đoàn Mẹ Giáo Hội.
Trong bài giảng sau bài Thương Khó, Đức Thánh Cha nói:
“Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46). Đây là tiếng kêu mà phụng vụ hôm nay yêu cầu chúng ta lặp lại trong thánh vịnh đáp ca (x. Tv 22:2), tiếng kêu duy nhất của Chúa Giêsu trên thập giá trong Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe. Những lời này đưa chúng ta đến tâm điểm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, tột đỉnh của những đau khổ Người đã chịu để cứu độ chúng ta. “Sao Ngài bỏ rơi con?”.
Những đau khổ của Chúa Giêsu rất nhiều, và bất cứ khi nào chúng ta lắng nghe trình thuật về Cuộc Khổ nạn, chúng đâm thấu tâm hồn chúng ta. Có những đau khổ về thể xác: chúng ta hãy nghĩ đến những cái tát và những trò đánh đập, đánh đòn và đội mão gai, và cuối cùng là sự tàn ác của việc đóng đinh. Cũng có những đau khổ của linh hồn: sự phản bội của Giuđa, sự chối bỏ của Phêrô, sự lên án của chính quyền tôn giáo và dân sự, sự nhạo báng của lính canh, sự nhạo báng dưới chân thập giá, sự từ chối của đám đông, sự thất bại hoàn toàn và cuộc trốn chạy của các môn đệ. Tuy nhiên, giữa tất cả những nỗi buồn này, Chúa Giêsu vẫn chắc chắn một điều: đó là sự gần gũi của Chúa Cha. Tuy nhiên, giờ đây, điều không tưởng tượng nổi đã xảy ra. Trước khi chết, Ngài kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Tình trạng bị bỏ rơi của Chúa Giêsu.
Đây là nỗi khổ đau nhức nhối nhất trong mọi nỗi khổ, nỗi khổ của tinh thần. Vào giờ bi thảm nhất của mình, Chúa Giêsu cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi. Trước thời điểm đó, Ngài chưa bao giờ gọi Cha bằng tên chung là “Chúa”. Để truyền đạt tác động của điều này, Tin Mừng cũng thuật lại những lời của Người bằng tiếng Aramaic “Êli, Êli, lêma xabácthani”. Đây là những lời duy nhất của Chúa Giêsu từ thập giá đã đến với chúng ta trong ngôn ngữ gốc. Sự kiện thực sự là sự suy sụp cùng cực, bị Cha bỏ rơi, bị Chúa bỏ rơi. Chúng ta thậm chí còn khó hiểu được nỗi đau khổ to lớn mà Ngài đã gánh chịu vì tình yêu dành cho chúng ta. Ngài thấy cánh cổng thiên đường đóng lại, Ngài thấy mình ở bờ vực cay đắng, giữa con tàu đắm của cuộc đời, sự sụp đổ của xác tín. Và Ngài kêu lên: “Tại sao?” Một câu “tại sao” bao hàm mọi câu “tại sao” khác từng được nói ra. “Lạy Chúa, tại sao?”.
“Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Trong Kinh thánh, từ “bỏ rơi” có sức mạnh lớn. Chúng ta nghe thấy nó vào những lúc đau đớn tột cùng: tình yêu không thành, hoặc bị từ chối hoặc bị phản bội; trẻ em bị từ chối và phá thai; hoàn cảnh bị hắt hủi, cảnh goá bụa và trẻ mồ côi; hôn nhân tan vỡ, các hình thức loại trừ xã hội, bất công và áp bức; sự cô độc của bệnh tật. Tóm lại, trong tình cảnh bị cắt đứt mạnh mẽ các mối dây liên kết chúng ta với người khác. Ở đó, từ này được nói lên: “bỏ rơi”. Chúa Kitô đã mang tất cả những điều này lên thập tự giá; trên đôi vai của mình, Ngài mang tội lỗi của thế giới. Và vào giây phút tột cùng, Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Chúa Cha, đã trải qua một hoàn cảnh hoàn toàn xa lạ với chính bản thể của Người: bị bỏ rơi, xa cách Thiên Chúa.
Tại sao phải ra đến nông nỗi này? Thưa: Ngài đã làm điều đó cho chúng ta. Không có câu trả lời nào khác. Cho chúng ta. Thưa anh chị em, ngày nay đây không chỉ là một buổi trình diễn. Mỗi người chúng ta khi nghe tin Chúa Giêsu bị bỏ rơi đều có thể nói: cho tôi. Sự ruồng bỏ này là cái giá mà Ngài phải trả cho tôi. Ngài trở nên một với mỗi người chúng ta để nên một với chúng ta một cách trọn vẹn và dứt khoát cho đến cùng. Ngài đã trải qua sự bỏ rơi để không bỏ mặc chúng ta trong tuyệt vọng, để ở bên chúng ta mãi mãi. Ngài đã làm điều này cho tôi, cho anh chị em, bởi vì bất cứ khi nào anh chị em hoặc tôi hoặc bất kỳ ai khác dường như bị dồn vào chân tường, bị lạc trong đường cùng, rơi xuống vực thẳm của sự bỏ rơi, bị cuốn vào một cơn lốc của rất nhiều câu hỏi “tại sao” mà không có câu trả lời, ở đó vẫn có thể có một niềm hy vọng: đó là chính Chúa Giêsu, cho anh chị em, cho tôi. Đó không phải là kết thúc, bởi vì Chúa Giêsu đã ở đó và ngay cả bây giờ, Ngài đang ở bên cạnh anh chị em. Ngài đã chịu đựng khoảng cách bị bỏ rơi để đón vào trong tình yêu của Ngài mọi khoảng cách mà chúng ta có thể cảm nhận được. Để mỗi người chúng ta có thể nói rằng: trong những thất bại của tôi, và mỗi chúng ta đã nhiều lần thất bại, trong sự cô đơn của tôi, bất cứ khi nào tôi cảm thấy bị gạt ra ngoài lề hoặc gạt người khác sang một bên, bất cứ khi nào tôi cảm thấy bị phản bội hoặc bị người khác phản bội, bất cứ khi nào tôi cảm thấy bị bỏ rơi hoặc bị người khác bỏ rơi, chúng ta hãy nghĩ đến Chúa Giêsu, Đấng đã bị bỏ rơi, bị phản bội và bị loại bỏ. Ở đó, chúng ta tìm thấy Ngài. Khi tôi cảm thấy lạc lõng và bối rối, khi tôi cảm thấy mình không thể tiếp tục, Ngài đã ở bên cạnh tôi. Giữa tất cả những câu hỏi chưa được trả lời của tôi “tại sao…?”, Ngài đang ở đó.
Đó là cách Chúa cứu chúng ta khỏi câu hỏi “tại sao?” Từ trong câu hỏi ấy, Người mở ra chân trời hy vọng không gây thất vọng. Trên thập giá, ngay cả khi cảm thấy bị bỏ rơi hoàn toàn –bị dồn đến cùng đường – Chúa Giêsu không chịu khuất phục trước sự tuyệt vọng; thay vào đó, Ngài cầu nguyện và tin tưởng. Ngài kêu lên “tại sao?” như lời của Thánh Vịnh (22:2), và phó thác mình trong tay Chúa Cha, mặc dù Ngài cảm thấy Chúa Cha xa vời biết dường nào (x. Lc 23:46) hay đúng hơn, Ngài không cảm nhận được vì thấy mình bị bỏ rơi. Trong giờ bị bỏ rơi, Chúa Giêsu vẫn tin tưởng. Trong giờ phút bị bỏ rơi, Người tiếp tục yêu thương những môn đệ đã chạy trốn, để Người lại một mình. Trong tình trạng bị bỏ rơi của mình, Ngài đã tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Ngài (c. 34). Ở đây, chúng ta thấy vực thẳm của nhiều điều xấu xa của chúng ta được đắm chìm trong một tình yêu vĩ đại hơn, mà kết quả là sự cô lập của chúng ta trở thành tình bằng hữu.
Anh chị em thân mến, một tình yêu như thế này, bao trùm chúng ta hoàn toàn và cho đến cùng, tình yêu của Chúa Giêsu, có thể biến trái tim chai đá của chúng ta thành trái tim bằng thịt. Tình yêu của Ngài là tình yêu thương xót, dịu dàng và trắc ẩn. Đây là phong cách của Thiên Chúa: gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng. Thiên Chúa là như thế. Chúa Kitô, khi bị bỏ rơi, thúc đẩy chúng ta tìm kiếm và yêu mến Ngài và những người bị bỏ rơi. Vì nơi họ, chúng ta không chỉ nhìn thấy những con người túng thiếu, mà còn nhìn thấy chính Chúa Giêsu, Đấng bị bỏ rơi: Chúa Giêsu, Đấng đã cứu chúng ta bằng cách xuống tận đáy sâu thân phận con người của chúng ta. Ngài ở với từng người trong số họ, bị bỏ rơi thậm chí cho đến chết… Tôi nghĩ đến một người Đức được gọi là “người đường phố”, là người đã chết dưới những hàng cột của quảng trường này, một mình và bị bỏ rơi. Anh ta là Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta. Rất nhiều người cần sự gần gũi của chúng ta, rất nhiều người bị bỏ rơi. Tôi cũng cần Chúa Giêsu vuốt ve tôi và đến gần tôi, và vì lý do này, tôi đi tìm Người trong những người bị bỏ rơi, những người cô đơn. Ngài muốn chúng ta quan tâm đến những anh chị em giống Ngài nhất, những người đang trải qua đau khổ và cô đơn cùng cực. Ngày nay, anh chị em thân mến, số lượng của họ đông đảo. Toàn thể các dân tộc bị bóc lột và bị bỏ rơi; người nghèo sống trên đường phố của chúng ta và chúng ta nhìn theo hướng khác; có những người di cư không còn khuôn mặt mà chỉ còn là những con số; có những tù nhân bị từ chối; mọi người bị coi là vấn đề. Vô số những người bị bỏ rơi khác đang ở giữa chúng ta, vô hình, ẩn mình, bị vứt bỏ với đôi găng tay trắng: những đứa trẻ chưa chào đời, những người già sống một mình: họ có thể là cha mẹ anh chị em, ông bà anh chị em, bị bỏ lại một mình trong các viện dưỡng lão, những người bệnh mà không ai thăm viếng, những người tàn tật bị phớt lờ, và những người trẻ bị gánh nặng bởi sự trống rỗng nội tâm to lớn, không có ai sẵn sàng lắng nghe tiếng kêu đau đớn của họ. Và họ không tìm thấy con đường nào khác ngoài tự sát. Bị bỏ rơi trong thời đại của chúng ta. Các “Đấng Kitô” của thời đại chúng ta.
Trong tình trạng bị bỏ rơi của mình, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta mở rộng tầm mắt và trái tim của mình cho tất cả những ai thấy mình bị bỏ rơi. Đối với chúng ta, là những môn đệ của Chúa “bị bỏ rơi”, không một người đàn ông, đàn bà hay trẻ em nào có thể bị coi là kẻ bị ruồng bỏ, không ai đáng bị bỏ rơi một mình. Chúng ta hãy nhớ rằng những người bị từ chối và bị loại trừ là những hình ảnh sống động của Chúa Kitô: họ nhắc nhở chúng ta về tình yêu liều lĩnh của Người, sự từ bỏ của Người đã giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức cô đơn và cô lập. Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta hãy nài xin ân sủng này: đó là yêu mến Chúa Giêsu trong tình trạng bị bỏ rơi của Người và yêu mến Chúa Giêsu trong những người bị bỏ rơi xung quanh chúng ta. Chúng ta hãy xin ơn được nhìn thấy và thừa nhận Chúa là Đấng tiếp tục kêu cầu nơi họ. Xin cho chúng ta đừng để cho tiếng nói của Người không được nghe thấy giữa sự im lặng chói tai của sự thờ ơ. Chúa đã không bỏ rơi chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy quan tâm đến những người cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi. Khi đó, và chỉ khi đó, chúng ta mới đồng tâm nhất trí với Đấng đã vì chúng ta mà “hoàn toàn trút bỏ” (Pl 2:7). Ngài đã hoàn toàn trút bỏ chính mình vì chúng ta.
Sau khi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật, Đức Thánh Cha nói thêm như sau
Anh chị em thân mến!
Tôi chào tất cả anh chị em, những người đến từ Rôma và những người hành hương, đặc biệt là những người từ xa đến. Tôi xin cám ơn sự tham dự của anh chị em và cả những lời cầu nguyện của anh chị em, những lời cầu nguyện đã được tăng cường trong những ngày qua. Thành thật cảm ơn anh chị em!
Tôi xin ban phép lành đặc biệt cho Đoàn lữ hành Hòa bình, trong những ngày này, đã khởi hành từ Ý để đến Ukraine, được thúc đẩy bởi nhiều hiệp hội: Giáo hoàng Gioan XXIII, FOCSIV, Pro Civitate Christiana, Pax Christi và những hiệp hội khác. Cùng với những nhu yếu phẩm cơ bản, họ đang mang lại sự gần gũi của người dân Ý với người dân Ukraine đang bị vùi dập, và hôm nay, họ đang dâng những cành ô liu, biểu tượng của hòa bình của Chúa Kitô. Chúng ta hãy hiệp nhất với cử chỉ này bằng lời cầu nguyện của chúng ta, chắc chắn sẽ mạnh mẽ hơn trong những ngày của Tuần Thánh.
Anh chị em thân mến, chúng ta đã bắt đầu Tuần Thánh với lễ kỷ niệm này. Tôi mời gọi tất cả anh chị em hãy sống điều đó như truyền thống dân thánh trung thành của Chúa đã dạy chúng ta, nghĩa là đồng hành với Chúa Giêsu trong đức tin và đức mến. Chúng ta hãy học nơi Mẹ chúng ta, Đức Trinh Nữ Maria. Mẹ đã đi theo Con của Mẹ với sự gần gũi của trái tim Mẹ. Mẹ là một linh hồn với Ngài. Và cùng với Người, mặc dù không hiểu hết mọi sự, Mẹ đã hoàn toàn phó mình cho thánh ý Thiên Chúa Cha. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta luôn gần gũi với Chúa Giêsu, hiện diện nơi những người đau khổ, bị loại bỏ, bị bỏ rơi. Xin Đức Mẹ dắt tay chúng ta đến với Chúa Giêsu đang hiện diện nơi những người này.
Tôi chúc mọi người một hành trình tốt đẹp hướng tới lễ Phục sinh!
Nguồn: http://www.vietcatholic.net/News/Html/282078.htm